Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

Bắc Triều Tiên, câu hỏi lớn chưa có lời giải

(Đây là một bài viết mà tôi nhận được qua email, chưa rõ tác giả là ai, nhưng thấy thú vị nên post lại đây để tham khảo. Trên trang web Nhịp Cầu Thế Giới cũng có 1 series bài rất thú vị về tình hình thê thảm ở Bắc Hàn của phóng viên người Hung, do Giáp Văn Chung dịch).
Thông tin về Bắc Triều Tiên có rất ít, thậm chí chúng tôi đã làm về Bắc Triều Tiên hơn 30 năm rồi mà cũng chưa giải đáp được những câu hỏi mà các anh lúc nãy đã sơ bộ nêu ra, không biết Bắc Triều Tiên là cái gì đâu. Bây giờ, tôi chưa có tham vọng trả lời với các anh cái ông này nó thế nào, chế độ này nó ra làm sao, hay nó là loại gì trong lịch sử nhân loại. Tôi chỉ xin kể lại những điều mắt thấy tai nghe, những gì đã cảm nhận được trong suốt một thời gian dài công tác ở đây. Thực tế trong quá trình công tác nhiều năm cũng không có những nguồn thông tin gì thực sự đáng tin cậy, cũng là nghe qua người này, người kia, qua bộ phận này, bộ phận khác. Không có một loại tài liệu gì mang tính chất chính thống mà người ta đưa ra.
Tôi chỉ có tham vọng báo cáo để các anh đứng ở góc độ cương vị công tác của mình và trên nhiều góc độ khác để có nhận xét về chế độ, về vị lãnh đạo này, về cái Đảng này nó như thế nào? Gần đây, Bắc Triều Tiên có mấy sự kiện lớn: Vấn đề hạt nhân. Gần đây nhất là vấn đề máy bay trinh thám của Mỹ bay vào không phận Bắc Triều Tiên. Trước đây Bắc Triều Tiên đã rình cái máy bay này mấy lần rồi, nhưng không làm sao bắt được quả tang. Lần này đã có sự chuẩn bị từ trước, Bắc Triều Tiên cho xuất phát 4 máy bay MIC 29, đuổi khoảng 20 phút trên bầu trời, có lúc hai bên đã tiếp cận cách nhau 14, 15 mét. Bắc Triều Tiên đã kiềm chế không bắn, vì nếu bắn thì không bao giờ nó rơi trên đất Bắc Triều Tiên được. Theo địa hình bản đồ Bắc Triều Tiên các anh sẽ rõ vì khi bị đuổi bao giờ máy bay cũng chạy ra phía biển; nếu có bắn trúng thì nó cũng bay được thêm 500 – 600 km ra ngoài biển, rồi mới rơi, lúc đó cãi nhau thì mệt lắm. Bên thì bảo tôi còn bay ở ngoài, anh bắn tôi, bên thì bảo anh đã vào đất liền của tôi, tôi bắn. Nhưng tang chứng thì máy bay lại rơi ngoài biển khơi.
Trước đây, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên cũng rất phức tạp. Bắc Triều Tiên không có khả năng cạnh tranh về kinh tế với Hàn Quốc. Do đó người ta mới nghĩ ra cần có một con bài gì đó để mặc cả. Bắc Triều Tiên đưa ra chính sách phát triển về kinh tế là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Trong công nghiệp nặng lại ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, mà công nghiệp quốc phòng thì lại vô cùng tốn kém: một khẩu súng bằng cả mấy cái máy cày, một quả tên lửa tính ra không biết bao nhiêu tiền của. Do đó từ khi theo con đường này, kinh tế Bắc Triều Tiên cứ luôn luôn bị lệch lạc. Bắc Triều Tiên coi nhẹ công nghiệp nhẹ và nông nghiệp cho nên đời sống nhân dân rất khổ, phải thắt lưng buộc bụng từ khi thành lập nước đến tận bây giờ.
Sang thế kỷ XXI, các nước XHCN phát triển nhanh chóng, nhưng Bắc Triều Tiên vẫn cứ thắt lưng buộc bụng, vẫn đói.
Ở Hàn Quốc còn có Sam Sung, LG Tivi, máy giặt bán trên thế giới, nhưng mà không thể tìm thấy một thứ đồ dùng gì của Bắc Triều Tiên đưa ra thế giới. Người ta nói rằng từ ngày ông Kim Nhật Thành mất đi (1994) ông đã mang theo tất cả những tinh hoa của đất nước. Vì vậy, khi ông Kim Châng In lên thay, đã không lãnh đạo được, để dân chết đói ghê quá. Tính đến năm 1994-1997, theo hãng thông tin cho biết, Bắc Triều Tiên đã để dân chết đói đến 2,8 triệu người, hơn con số ta chết đói năm 1945, khi Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, chỉ có 2 triệu. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI mà một nước XHCN đã để cho dân chết 2,8 triệu, đây là một tội ác, là rất vô nhân đạo. Một chị người Triều Tiên, vừa được sang lấy chồng Việt Nam đã nói với tôi: “Anh ạ, không phải là không có một con đường để Triều Tiên thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, có nhưng người ta không đi. Tại sao tôi biết, vì khi tôi vào Sứ quán Hàn Quốc ở khách sạn Deawoo, có một thư viện rất lớn. Tôi đọc sách, tôi mới thấy rõ ràng là có con đường khác mà lãnh tụ của tôi không đi, cứ đi theo con đường này, cho nên dân tôi chết đói. Từ xưa đến nay tôi được giáo dục những điều không đúng sự thật”. Đây là điều ta đáng phải suy nghĩ.
Theo bản đồ thì Bắc Triều Tiên phía Bắc giáp Trung Quốc khoảng 1300 km, có biên giới rất lớn; phía Đông giáp với Liên Xô có 16 km; phía Nam giáp với Hàn Quốc ở vĩ tuyến 38. Phía bên này giáp biển Tây là Trung Quốc; giáp biển Đông là Nhật Bản. Từ đó ta thấy Bắc Triều Tiên là một nước vừa nghèo vừa nhỏ nằm kẹp giữa các cường quốc: Trung Quốc, Nga, Nhật Bản; phía Nam giáp biên giới là người anh em Hàn Quốc, mặc dù chưa phải là cường quốc nhưng là một nước phát triển. Theo ông Tổng thống mới nhất của Hàn Quốc khi nhận chức đã công bố Hàn Quốc đứng hàng thứ 12 Thế giới là loại mạnh rồi.
Vị trí địa lý chính trị làm cho Bắc Triều Tiên ở vào thế rất bị o ép. Từ đó sự an nguy của Bắc Triều Tiên phụ thuộc rất nhiều yếu tố chi phối của các nước lớn này. Chính vì thế mà vấn đề định hướng cho Bắc Triều Tiên, nói rộng ra là cả bán đảo Triều Tiên, vấn đề thống nhất Nam-Bắc (Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc) không hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của nhân dân, hay là ý muốn của Ban Lãnh đạo, mà nó còn phụ thuộc vào lợi ích của các nước lớn xung quanh.
Như các đồng chí đã biết trên thế giới có 3 loại nước bị chia cắt là Đông Đức, Việt Nam và Nam Bắc Triều Tiên. Việt Nam đã thực hiện được thống nhất đất nước theo kiểu của ta. Đông Đức thì thống nhất theo kiểu sáp nhập tức là bên này nuốt chửng bên kia. Theo Hàn Quốc nếu sáp nhập theo kiểu này thì họ không thể cáng đáng nổi, vì Đông Đức ngày xưa so với các nước XHCN khác là vào loại khá. Khi sáp nhập thì Tây Đức đã thấy đây là một gánh nặng đến bây giờ vẫn chưa gỡ ra được, vẫn như cái hố trong nền nhà. Sự phân biệt giữa người Đông Đức và người Tây Đức vẫn còn tồn tại nhiều năm nay. Hàn Quốc cho rằng nếu thống nhất như kiểu Tây Đức thì không kham nổi, tức là phải cõng một ông anh què quặt trên lưng, đi trên một con đường rất dài chưa biết đến bao giờ ông ấy khỏe chân để đặt xuống dắt ông ấy đi. Tính đến bây giờ về tiềm lực kinh tế năm nay tổng sản phẩm quốc dân của Bắc Triều Tiên mới có khoảng 15 tỷ, có ngân hàng nói chỉ có 10 tỷ. Trong khi đó, tổng sản phẩm quốc dân của Hàn Quốc năm 2001 đã là 546 tỷ, một con số chênh lệch quá đáng. Bây giờ muốn thống nhất được trước hết phải tăng cường giao lưu, đầu tư vào Bắc Triều Tiên, vì đằng nào cũng phải đầu tư ra nước ngoài, chi bằng đầu tư lên miền Bắc, cùng một dân tộc, cùng một tính chất, cùng một con người, cùng một tiếng nói thì hiệu quả đầu tư nó sẽ cao hơn. Như vậy Bắc Triều Tiên sẽ phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật khá dần lên, dần dần hai bên bớt sự chênh lệch, gần nhau hơn thì may ra mới thống nhất được. Ông Tổng thống Kim Tê Chung nói: Việc thống nhất của chúng tôi còn rất lâu dài.
Mẫu thứ hai để thống nhất là Việt Nam, dùng chiến tranh bạo lực thì Hàn Quốc không muốn vì thấy cái giá phải trả nó đắt quá.
Năm 1995, Tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm Hàn Quốc. Chủ tịch Đảng cầm quyền là Tổng thống Hàn Quốc đã hỏi Tổng bí thư Đỗ Mười: “Ông có lời khuyên nào cho việc thống nhất của chúng tôi không?”. Đồng chí Đỗ Mười chỉ nói một câu: “Nếu cho tôi có một lời khuyên thì không dùng biện pháp chiến tranh vì nó rất đắt”. Đại ý nói như vậy.
Hàn Quốc cũng không muốn như vậy vì đất nước đã phát triển ổn định, muốn ổn định để phát triển đi lên.
Vậy thì phải chọn ra con đường thứ ba, không phải kiểu Đức hay kiểu Việt Nam, mà là kiểu dần dần tiến tới đoàn kết dân tộc, tăng cường giao lưu hợp tác, rồi tiến tới thống nhất. Con đường này sẽ rất dài, phải 20 năm hoặc 50, 70 năm trở ra. Dân số Bắc Triều Tiên tính đến năm 2001 có khoảng 22 triệu rưỡi. Hàn Quốc có khoảng 46 triệu (gấp đôi). Diện tích cũng gấp đôi, tiềm lực kinh tế thì Hàn Quốc gấp ba bốn chục lần. Thủ đô của Bắc Triều Tiên là Bình Nhưỡng, là một thủ đô tương đối đẹp. Trong quyển sách “Những nền văn minh thế giới” đã liệt thủ đô Bình Nhưỡng là một trong những thủ đô đẹp của thế giới. Sau chiến tranh Triều Tiên 1952-1953, thủ đô Bình Nhưỡng bị san bằng tất cả. Sau đó Liên Xô đứng ra thiết kế lại toàn bộ, cho quy hoạch xây dựng Thủ đô. Quy hoạch này được thiết kế rất hoàn chỉnh, xây rất lớn, như tòa thư viện nhân dân ở giữa thủ đô, Hội trường Quốc hội rất lớn và đẹp, kè của con sông Đại Đồng chảy qua thủ đô đẹp mỹ mãn. Cho đến bây giờ vẫn theo quy hoạch này. Chỉ tội cái nền khoa học kỹ thuật, kinh tế yếu nên trông nó rất buồn tẻ, nhưng lúc nào cũng cảm thấy nó thanh bình, như cây liễu rủ bên sông Đại Đồng, đường phố thì rộng lớn, đẹp đẽ và quy củ. Xã hội rất ngăn nắp, giáo dục rất nghiêm chỉnh tất nhiên là rất lạc hậu.
Lãnh đạo của Bắc Triều Tiên bây giờ là ông Kim Châng In (Kim Chính Nhật), giữ chức Tổng bí thư Đảng Lao động Triều Tiên – chứ không phải là Tổng bí thư của Ban Chấp hành – Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội là ông Kim Iâng Nam. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội có vai trò đối ngoại như nguyên thủ quốc gia, giống như Nhật Hoàng. Các công việc như Trình quốc thư, ký giấy ủy nhiệm, ban bố sắc lệnh đều do Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội ký.
Sau đó mới đến ông Chê Chung Ốc, Chủ tịch Quốc hội. Ông này chẳng khác gì ông từ giữ đền. Hôm nào họp thì ông trải chiếu, giống như Văn phòng của ta. Danh nghĩa là Chủ tịch Quốc hội, nhưng thực quyền thì không có. Tất cả thực quyền đều tập trung vào ông Kim Châng In. Còn ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì không có gì đáng nói.
Chế độ của Bắc Triều Tiên danh chính ngôn thuận gọi là XHCN theo kiểu Triều Tiên. XHCN kiểu Triều Tiên này cũng có rất nhiều cái khó hiểu, một chế độ phong kiến, độc đoán, gia đình trị. Phong kiến vì lễ giáo rất nặng nề, cấp trên cấp dưới sùng bái. Nếu ai không sùng bái ông ấy là đã mất đầu rồi, chưa nói là chống lại, nếu chống lại thì không bao giờ tồn tại. Tệ sùng bái này được kế thừa từ ông bố Kim Nhật Thành. Ở Triều Tiên hiện nay mọi người đều đeo một cái huy hiệu rất to. Có 3, 4 loại huy hiệu; có loại một ảnh là ông Kim Nhật Thành, hoặc ông Kim Châng In rất to; có 2 loại ảnh thì hai ông cùng ngồi. Có phân cấp từng loại một. Tệ sùng bái này bây giờ vẫn còn nặng nề vô cùng. Trung Quốc hiện nay đã bỏ các huy hiệu và ngũ lục Mao Trạch Đông. Thời Kim Nhật Thành còn sống, khi anh chị em gặp nhau trên đường, không bao giờ được phép chào hỏi nhau về sức khỏe, mà phải hỏi nhau đã đọc trước tác Kim Nhật Thành đến chương mấy rồi. Nếu có người thứ 3 ở đấy mà lại hỏi nhau về con cái, sức khỏe thì sau đấy rất phiền toái. Một ngày một người có 12 giờ ở cơ quan gồm: 8 giờ làm công việc được giao, 2 giờ lao động công ích như quét tước ở xung quanh cơ quan, xí nghiệp hay nhà máy, sau đó có 2 giờ ngồi đọc trước tác Kim Nhật Thành.
Học sinh trung học, cấp 2, cấp 3 hay Đại học thì không có lúc nào được phép ngồi để suy nghĩ. Vì ngồi suy nghĩ lại lẩn thẩn nghĩ tại sao mình khổ, tại sao bố mẹ mình lao động 12 tiếng một ngày mà vẫn nghèo. Người ta không muốn có thời gian để suy nghĩ cá nhân, bắt phải đi học, học ở trên lớp xong, về nhà ăn cơm trưa xong thì ra tập múa hát (Hát toàn những bài ca ngợi ông Kim Nhật Thành). Sau đó là lao động công ích, học trước tác. Đến tối là về nghỉ ngơi, ăn cơm. Có những ông giáo nói không bao giờ biết mặt con vì sáng sớm đi làm con chưa ngủ dậy, tối khuya mới về thì con đã đi ngủ. Con mấy tuổi mà vẫn không biết mặt. Cường độ lao động rất căng thẳng. Một xã hội rất nặng nề. Các nước phương Tây gọi xã hội này là binh doanh xã hội, tức là trại lính. Mới nhìn vào thì thấy xã hội rất quy củ, nền nếp, nhưng đi sâu vào thì thấy nó nặng nề lắm. Có một ông Đại sứ Angiêri khi mới sang có nói một xã hội như thế này mà tại sao người ta cứ chửi bới, phong cảnh thì đẹp đẽ, con người thì nền nếp – ông được đi tham quan, dự tiệc tùng. Một tháng sau, sau khi trình quốc thư thì ông bắt đầu chửi Triều Tiên: Sao lại có một xã hội kỳ dị như thế. Mùa đông thì không có lò sưởi, vào nhà làm việc chỉ được 10 phút là phải về, nếu lâu một chút là đau đầu gối, ngồi lâu thì đau lưng vì lạnh quá.
Đến tháng thứ hai thì ông ta chửi thậm tệ: Tại sao một xã hội để cho dân khổ thế này, bắt dân mang giẻ đi lau từng thanh ray, thanh sắt trên cầu, nhiều cái rất vô lý.
Nếu có sang thăm Bắc Triều Tiên, ở độ một tuần thì thấy rất đẹp, nhưng đến một tháng trở ra thì chán lắm. Tôi đã ở bên ấy 15 năm, chịu hết nổi. Những năm 60, 70 ra chợ còn mua được túi táo. Khóa trước khóa vừa rồi thì không còn nữa. Tất cả đều phải mua ở Bắc Kinh. Hàng tháng đại sứ ta cử người đi bằng tàu hỏa sang Bắc Kinh, một ngày đi, một ngày về, 3 ngày đi mua sắm và chuẩn bị. Tất cả các loại thực phẩm gạo, thịt, cá đều mua ở Bắc Kinh, sau đó đưa về sứ quán chia cho anh chị em theo đăng ký của từng người, từng gia đình, còn lại Sứ quán dùng để chiêu đãi hoặc tiếp khách.
Có lần phòng thông tin của Sứ quán cần 20 mét dây điện để làm việc. Các anh đánh xe đi khắp nơi khoảng 2 – 3 tiếng mà không mua được vì các cửa hàng đều không có.
Tôi có cô con gái được sang Xê Un học tập. Trước đó cháu có qua Bình Nhưỡng thăm chúng tôi. Gia đình muốn chụp một kiều ảnh kỷ niệm. Chúng tôi đi 3, 4 cửa hàng, có cửa hàng chỉ còn 1 kiểu, có cửa hàng không có phim, đến một cửa hàng còn 3, 4 kiểu nhưng máy lại rất cổ, không có độ rum, phòng chụp thì bé, người thì nhiều nên chụp không đẹp. Sau đó cháu sang Xê Un, có biên thư cho chúng tôi nói ở Xê Un chẳng thiếu thứ gì.
Năm 2001, có đoàn của Bộ Văn hóa do một đồng chí thứ trưởng dẫn đầu (anh Phúc) sang thăm Triều Tiên, có mang 5.000 tấn gạo để tặng bạn. Qua Bắc Kinh có gặp tôi, anh đề nghị tôi cho vài đường chỉ dẫn (anh nói vui vậy). Tôi có nói: Anh là thứ trưởng, thuộc loại cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước; hai là lại mang quà sang; ba là lại sang vào cuối tháng 4 – mà tháng 4 là tháng có ngày sinh của ông Kim Nhật Thành – thì rất thuận lợi cho anh. Ba yếu tố đó đã tạo cho anh một cái thẻ của một vị khách được trọng vọng. Nhưng tôi cũng phải nói với anh tại thủ đô Bình Nhưỡng không có điện đường. Anh ấy bảo cậu cứ dọa tớ, thủ đô mà lại không có điện đường. Tại sao tôi nói vậy, vì trước đây có đoàn của anh Vũ Khoan, anh Phạm Tất Đang sang, bạn cho ở tại Khách sạn 5 sao. Khi vào nhà vệ sinh, thấy có một cái bồn tắm để đầy nước, anh tháo nước đi, đến khi đi vệ sinh xong thì không có nước để dội. Gọi người phục vụ thì họ nói: nước chứa trong bồn tắm là nước để dùng cả ngày. Bây giờ phải xin nước ở phòng khác để dùng.
Một ngày thường mất điện không bao giờ dưới 10 lần. Một lần tôi thí điểm bằng cái máy cắt, cứ mỗi lần có điện trở lại thì nó lại cắt đi một đoạn dây bằng cái phong bì. Từ 16 giờ hôm trước đến 8 giờ hôm sau, tôi kiểm tra có 24 mảnh giấy trắng được cắt ra như thế, mất điện thường xuyên, “trường kỳ kháng chiến”.
Hồi tôi mới sang lần đầu tiên, bao giờ cũng có lệ mời anh em đi uống bai – gọi là nhập trạch. Hôm đó thấy mỗi người cầm một cái đèn pin. Tôi nói: ta đến khách sạn cơ mà. Y như rằng đèn pin có tác dụng. Ngồi một lúc thì mất điện, phải bật đèn pin và gọi nhân viên đến châm nến.
Khi đoàn của anh Thứ trưởng Bộ Văn hóa về, qua Bắc Kinh gặp tôi. Anh nói: Ai đời ở khách sạn 5 sao mà mấy ngày trời ăn toàn củ cải, xào rồi luộc, nấu; nước không có; ra đường không có điện đóm gì, tối như bưng, thỉnh thoảng có người chạy vụt qua. Tôi có nói với anh Phúc: ở Thủ đô có chỗ vẫn có điện. Ở ngã tư nào có ảnh của ông Kim đứng, ở dưới chân có một cái đèn hắt lên. Ở chỗ ấy thì có điện, chỉ chiếu lên người ông thôi, còn chung quanh tối bưng. Điện đấy không phải để thắp sáng cho nhân dân, mà là để “tra tấn” ông Kim Nhật Thành, vì riêng mặt ông ấy sáng, nên muỗi và châu chấu bay đến bao vây đậu vào hoặc lao vào mặt ông ấy. Anh Phúc có nói với tôi: khi nào có đoàn sang, anh báo tin cho tôi để tôi gửi cho các anh mấy cân tôm khô, chứ sống thế này thì khổ quá.
Vấn đề dân trí cũng rất thấp. Họ không biết được Việt Nam đã giải phóng đâu. Năm 1989 có Đại hội Thanh niên sinh viên thế giới lần thứ 13 (Festival) tổ chức tại Bình Nhưỡng. Đoàn Việt Nam do anh Hà Quang Dự làm trưởng đoàn. Anh Hà Quang Dự có đến chào Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn của Bắc Triều Tiên. Ông này chúc đồng chí Hà Quang Dự: “Chúc Việt Nam mau chóng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược để giải phóng Tổ quốc”. Đồng chí Hà Quang Dự cho rằng phiên dịch sai. Đồng chí phiên dịch nói: “Tôi đã chinh chiến ở đây mười mấy năm rồi, không dịch sai được đâu”. Đồng chí Dự phải nói lại: “Chúng tôi đã thống nhất đất nước từ năm 1975, đến nay đã gần 20 năm rồi”. Đồng chí Bí thư thứ nhất TW Đoàn Triều Tiên vỗ vai đồng chí Dự và nói: “Chúng ta là những người chiến sĩ cộng sản, không nên giấu nhau, không nên nói dối”. Các đồng chí luôn luôn tin tưởng ở chúng tôi bao giờ cũng chung một chiến hào, sát cánh với các đồng chí đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Qua đó ta thấy dân trí ở đây rất thấp. Người ta ví chế độ XHCN của Bắc Triều Tiên như một cái hộp đen, trong đó có rất nhiều cái bí ẩn; không ai được phép xem. Cho nên Bắc Triều Tiên rất sợ mở cửa, cải cách. Nếu mở cửa cải cách thì hộp đen dần dần hé mở thì các bí mật trong đó sẽ lộ ra hết, sẽ thành chuyện tày trời. Vì sao vậy?
Năm 1996, ông Bí thư Trung ương Đảng Bắc Triều Tiên đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Bắc Triều Tiên sang dự Đại hội lần thứ VIII Đảng ta (1996). Đến 1997 thì ông ấy đào tẩu sang Hàn Quốc. Ông ta là một trí thức lớn, hiểu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Kim Nhật Thành. Ông là cha đẻ ra tư tưởng chủ thể Kim Nhật Thành. Ông ấy lại bỏ đất nước ra đi. Ông cho rằng: Tôi phải ra đi để nói cho mọi người trên thế giới rằng: cái chế độ này không thể tồn tại, phải tìm ra một cách đi khác cho đất nước này, xã hội này. Chế độ của Bắc Triều Tiên là một chế độ rất hà khắc. Nếu những bí mật của chế độ Bắc Triều Tiên được hé mở ra, thì người ta sẽ thấy nó tàn ác và vô nhân đạo hơn cả chế độ Pôn Pốt ở Campuchia.
Các nhà tù, khu biệt giam ở biên giới được mở rộng nhiều. Trước đây chỉ có ở 2, 3 tỉnh. Sau này phát triển ra mấy chục cái trại ở nhiều tỉnh. Các trại này là một khu rộng lớn, trong đó đầy người như khu biệt xứ ở Sibêri ngày xưa ở Liên Xô.
Thí dụ: Có một ông đang làm Thủ tướng. Bẵng đi một thời gian không thấy tên trên báo chí. Sau đã thấy ông ấy đang ở trên biên giới làm giám đốc lâm trường khai thác gỗ ở biên giới. Cái lệ sùng bái lãnh tụ trở thành một cái bắt buộc để sống. Cho nên ai cũng phải học trước tác, ai cũng phải sùng bái. Hỏi trẻ con về những danh nhân trên thế giới, ông Mác, ông Lênin đều không biết, chỉ biết mỗi ông Kim Nhật Thành thôi. Hỏi về trước tác, chương mấy, điều bao nhiêu nói về thiếu nhi thì các cháu đọc luôn, thuộc lòng.
Ở Bắc Triều Tiên bây giờ có việc mua được một cái đài hay một cái dàn điện tử về, thì Hải quan giữ, cắt hết các sóng ngắn, để khi bật lên chỉ nghe thấy tiếng Kim Nhật Thành nói thôi, không phải dò sóng gì cả. Ở bên đó chỉ có một đề tài là ca ngợi Kim Nhật Thành, khi bật Tivi lên là thấy hai cha con. Phim truyện thì cũng chỉ có một đề tài ca ngợi hai cha con Kim Nhật Thành, không có một đề tài nào khác. Thí dụ: Hai anh chị yêu nhau, nhưng khi đến lúc gay cấn nhất thì lại nghĩ đến ông Kim Nhật Thành. Gần đây nhất có một cô giành được giải nhất về Maratông quốc tế. Phóng viên có hỏi: Chị nghĩ như thế nào trong quá trình tập luyện để đạt được giải. Chị trả lời: “Tôi vừa chạy vừa nghĩ đến Tướng quân Kim Châng In nên đạt được thành tích như vậy”. Tất cả xã hội gần như phải bắt buộc theo một quy chuẩn, bắt buộc tư tưởng người ta phải suy nghĩ như vậy không được suy nghĩ gì khác, mà việc này đôi khi nó cũng có hiệu quả. Thí dụ như trên báo của Đảng đến ngày sinh của ông Kim Châng In là ngày 16 tháng 2 thì năm nào cũng có một bài nói về các hiện tượng kỳ thú, kỳ lạ của tự nhiên như tự dưng trời quang mây tạnh thì có một cầu vồng đôi, hay là tự dưng thấy có bông hoa lan nở hoa trái vụ, hay là tự dưng trên các cây ở hai bờ sông Đại Đồng lại có cò trắng bay về. Trên báo Đảng có những bài mang tính chất mê tín dị đoan, mỵ dân như vậy. Việc chi phí vào tệ sùng bái cá nhân này cũng lớn lắm. Theo lịch sử chính thống thì ông Kim Châng In sinh ở núi Bạch Đầu Sơn. Núi Bạch Đầu Sơn cách thủ đô hàng mấy trăm ki lô mét, đèo heo hút gió, không có người ở trên đó thế mà cũng mang pháo hoa lên trên ấy bắn để ca ngợi ông Kim Châng In.
Ngày sinh của ông Kim không phải là ngày 16 tháng 2 năm 1942 như lịch sử bây giờ, ông Kim sinh năm 1941 ở Viễn Đông – Nga. Hiện có rất nhiều tài liệu mà Hàn Quốc đã công bố. Ở ngay Đại sứ quán Hàn Quốc ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều tài liệu nói về lịch sử của Triều Tiên. Ngay cô dâu Việt Nam cũng nói: Ngày sinh của vị lãnh tụ của chúng tôi cũng bị hoán cải đi, bóp méo sự thật. Lãnh tụ sinh năm 1941 ở Liên Xô lại nói sinh năm 1942 ở núi Bạch Đầu Sơn như thế là không đúng. Qua đó ta thấy xã hội không theo một quy chuẩn nào cả, quy chuẩn đạo đức cũng không phải, quy luật phát triển của lịch sử nhân loại cũng không phải.
Cả thế giới người ta đang cách mạng xanh, cách mạng tin học, nhưng Bắc Triều Tiên cứ lục cục sản xuất tên lửa để đi đánh nhau. Nhân dân đều biết nhưng không dám phản đối, vì mới nho nhoe thì đã bị túm rồi. Thủ đô Bình Nhưỡng hiện nay như một ốc đảo. Các tỉnh xung quanh Thủ đô thì rất khổ, rất nghèo, đói rách triền miên. Riêng Thủ đô vẫn rất sạch sẽ và cung cấp cho nhân dân vẫn tương đối đầy đủ, khoảng 400 gram lương thực trong một ngày, còn các chỗ khác chỉ khoảng 250 đến 300 gram, tùy từng vùng. Ở Thủ đô chỉ có gạo thôi, còn thức ăn không có mấy. Thực hiện chế độ bao cấp toàn bộ, tất cả quần áo của cán bộ công nhân viên ở trong thành phố do Nhà nước cấp phát. Ở trường học cấp phát đồng phục. Nhân dân được cấp phát theo chế độ cán bộ này, cán bộ kia. Cho nên nhân dân ăn mặc tươm tất, không có quần áo rách. Thủ đô là ốc đảo vì xung quanh các cửa ô của thủ đô có các quân đoàn quân đội đóng, có trạm gác. Ai ra vào đều bị khám xét rất kỹ, không có lệnh không được vào, không được ra. Có những người ở tỉnh ngoài làm việc ở Thủ đô cũng không được về thăm gia đình, quê hương. Ra khỏi thành phố là phải có giấy phép rất đặc biệt. Vào thành phố phải là những đợt được các tổ chức đoàn thể của Nhà nước cử đi họp, học tập mới được về, không có chuyện vào thăm hay vào chơi trong thành phố.
Tôi xin kể lại chuyện chị người Bắc Triều Tiên đã lấy chồng Việt Nam vừa qua. Chồng chị là anh Cảnh, hiện là huấn luyện viên đội môtô – xe đạp của Sở TDTT Hà Nội – Năm1967, anh được cử sang học ở Triều Tiên. Năm 1968-1969 anh đi thực tập ở một nhà máy, anh yêu chị công nhân Triều Tiên. Vì lúc đó quy định của Nhà nước ta là đi học không được phép yêu đương người nước ngoài. Song hai bên vẫn cứ hẹn hò, chờ đợi cho đến bây giờ. Khi có những đoàn đại biểu cấp cao đi thăm Triều Tiên thì anh lại gửi đơn cho Chủ tịch nước hoặc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đề nghị tác động với Triều Tiên để được lấy nhau.
Năm 2001, Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm Bắc Triều Tiên, anh Cảnh lại gửi thư nhờ Chủ tịch nước tác động với Chính phủ Bắc Triều Tiên. Tháng 5 năm 2001 đặt vấn đề. Tháng 8 năm 2001 Quốc hội Triều Tiên họp đã thông qua cho phép chị lấy anh Cảnh. Nhưng vẫn giữ quốc tịch Triều Tiên. Chị sinh năm 1948 – anh Cảnh sinh năm 1949. Anh Cảnh có bố công tác ở Bộ Ngoại giao, anh là con một. Đây là thắng lợi về mặt chế độ. Hôm nhận được lệnh đi, Công an mang một xe tải đến đón chị (bên đó không có xe con), trên đó có một ghế băng. Chị nói chị không đi, dù có chết cũng không đi. Vì chị nghĩ gia đình chị có mấy tội: một là ông bố định bỏ đi miền Nam từ năm 1960, tức là tội bất trung với Đảng, là một tội nặng nhất; hai là bản thân chị lại yêu một người nước ngoài, tức là không trung thành với lãnh tụ. Với những tội đó chắc là bị đưa đi xét xử, do vậy chị nhất quyết không đi. Khi công an nói đó là lệnh của Lãnh tụ, chị phải đi. Khi xe đến biên giới của Thủ đô thì bị ách lại. Sau đó phải điện cho Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao cho xe con ra đón, đưa chị vào một khách sạn, lúc đó chị mới tin là còn sống. Sau đó họ tổ chức lễ cưới cho chị ở Triều Tiên, chụp ảnh để lại cho gia đình. Khi sang đây chị kể lại chuyện mẹ chị bị chết đói cách đây mấy năm vì thương con không có gì ăn nên đã nhường lại cho con ăn. Những nơi mà ngày xưa các anh ấy đến học tập, thực tập thì bây giờ không còn gì nữa, chỉ còn lại là đồi trọc, vì không có gì để đun, nên mọi người đến đó chặt hết. Nhà máy phân đạm mà ngày xưa anh Cảnh đến thực tập và chúng tôi yêu nhau, do không có điện nên đã tháo dỡ hết phụ tùng máy móc để cho vào lò đúc thép. Bây giờ ở đó rất buồn tẻ, con người thì bạc nhược. Nếu so sánh với miền Nam Triều Tiên vào năm 1953, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc thì miền Bắc Triều Tiên có nhiều ưu thế hơn vì miền Bắc có nhiều khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên nhiều, các ngành khai thác đó Nhật bóc lột vơ vét đều tập trung ở miền Bắc như thép, than. Khi Nhật thua rút đi, miền Bắc tiếp thu được. Trong khi đó ở miền Nam thì không có gì. Miền Nam chủ yếu là đồng bằng, nông nghiệp là chính. Nếu tính thu nhập đầu người ở Hàn Quốc năm 1962 mới chỉ có 62 USD/đầu người. Đến năm 1996 thì tổng thu nhập bình quân đầu người đã lên đến 11.000 USD/ người, đứng thứ 11 thế giới. Đến 1997 bị khủng hoảng tài chính nên tụt xuống một chút. Mấy năm sau lại hồi phục được, bây giờ được đánh giá đứng thứ 12 thế giới. Qua đó ta thấy được đường lối chỉ khác nhau một chút kết quả thu được đã tất khác nhau. Hàn Quốc thực hiện đường lối dựa vào ô quân sự của Mỹ, cho Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên khoảng 37.000 quân, gần 100 căn cứ để rảnh tay đi vào sản xuất kinh tế, buôn bán, sản xuất công nghiệp. Trong khi đó thì Bắc Triều Tiên tập trung vào công nghiệp quốc phòng rất tốn kém, không còn đủ tiềm lực để nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Trong khoảng 14 năm (1962-1975), dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Pắc Chung Hy, Hàn Quốc đã khôi phục đất nước xong, sau đó tiếp tục phát triển rất nhanh đã trở thành một con rồng ở khu vực này. Tổng sản phẩm quốc dân đạt 400, 500 tỷ đô la, thu nhập đầu người vượt qua ngưỡng của 10.000 USD/người (11.400 USD).
Con đường phát triển định hướng được đúng thì đi càng nhanh, đất nước càng phát triển được. Nếu định hướng sai, đi càng nhanh càng chết. Ta hình dung Nam- Bắc Triều Tiên như cái kéo, càng đi càng xa nhau, riêng nói về kinh tế chứ chưa nói về các chế độ khác. Khoảng cách chênh lệch giữa hai miền càng ngày càng xa nhau. Mấy năm gần đây Bắc Triều Tiên toàn phát triển trên con số không. Từ 1994-1998 có năm bị âm đến 3,7%. Còn bình thường cứ âm từ 2% hoặc 3%. Trong khi đó mặc dù Nam Triều Tiên bị mắc vào khủng hoảng tài chính năm 1997, nhưng đã bứt lên rất mạnh. Tinh thần dân tộc rất cao. Riêng về kinh tế khi đất nước lâm nguy, người dân sẵn sàng tập trung toàn lực mang vàng, bạc góp cho Nhà nước để cùng thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế.
Ngược lại ở miền Bắc, do đường lối kinh tế xác định không được chính xác, càng ngày càng lún sâu vào khó khăn. Như các đồng chí đã biết mạnh vì gạo bạo vì tiền, khi đã nghèo thì hèn, khi đã không phát triển thì cảm thấy xấu hổ, không dám nói với ai. Tôi lấy ví dụ: Ngoại giao hay dự các buổi gặp mặt, tiệc tùng. Đại sứ hoặc cán bộ ngoại giao của Hàn Quốc gặp mọi người tay bắt mặt mừng, gặp gỡ trao đổi với Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Nông nghiệp, Bộ Giáo dục, Bộ Văn hóa… Nhưng với Bắc Triều Tiên chỉ đứng một xó, không dám nói chuyện với ai và cũng không có chuyện gì để nói. Gặp cán bộ ngoại giao chúng tôi, là những người chí thân, nhưng cũng không biết nói chuyện gì và cũng không có đề tài gì để nói cả.
Tôi đã kể một số sự kiện vụn vặt để các anh hình dung. Tôi cũng không áp đặt bảo đây nó là cái gì, mà để các anh tự đặt cho nó một cái tên.
Đảng của bạn có tên chính thức là Đảng Lao động Triều Tiên được thành lập từ ngày 10 tháng 10 năm 1945 do ông Kim Nhật Thành tập họp một số lực lượng chống Nhật. Quá trình thành lập Đảng cũng nan giải lắm, đánh nhau ghê gớm. Khi nói về lãnh tụ Đảng này, rất nhiều báo chí phương Tây đăng ảnh Kim Nhật Thành. Để thành lập được Đảng, Kim Nhật Thành đã phải trừ khử không biết bao nhiêu là bạn thân, chiến hữu mới lên được chức, thành lập được Đảng. Chính vì thế mà có nhu cầu đặc biệt là phải sùng bái cá nhân. Tại sao phải sùng bái vì cái gì mà người ta phải bắt người khác ca ngợi thì không phải cái ấy nó tốt, nó đẹp, mà là nó yếu. Do đó phải phát động cả dân, huy động không biết bao nhiêu tiền bạc, của cải vật chất, tinh thần, thời gian, sức lực của cả dân tộc. Ở Bắc Triều Tiên khi cần huy động một lực lượng quần chúng độ một triệu người thì chỉ cần một tiếng đồng hồ đã đứng suốt dọc đường vẫy cờ, mặc áo dài đẹp từ sân bay về đến Nhà khách chính phủ để đón một vị khách nào đó của nước ngoài. Qua đó thấy được một chế độ rất bao cấp và do nhu cầu chính trị nên nó phải lên gân cốt để tạo cho mình một thế vững mạnh.
Riêng về đường lối cách mạng của Đảng Lao động Triều Tiên có rất nhiều cách tranh luận. Về lịch sử, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô ép được quân Nhật rút khỏi Triều Tiên và giải phóng được Triều Tiên. Phía Nam, Mỹ vào giải phóng quân Nhật, phía Bắc Liên Xô vào giải giáp. Theo hiệp định Giơnevơ ký năm 1945, đến năm 1947 thì Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đến năm 1948 không thống nhất được, nên mỗi bên thành lập một Nhà nước riêng của mình. Miền Bắc do Kim Nhật Thành đứng ra thành lập nhà nước. Trong quá trình hoạch định ra đường lối phát triển cách mạng của Đảng, cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, quá trình xây dựng CNXH cũng có rất nhiều khó khăn. Sau đó quyết định khởi sự cuộc chiến tranh, gọi là Nam tiến. Vấn đề này còn rất nhiều bàn cãi. Có người nói Bắc Triều Tiên tấn công vào miền Nam gây ra cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1952-1953; có người thì nói là do Mỹ và Nam Triều Tiên Bắc tiến. Gần đây, nhiều tư liệu được tiết lộ ra là phía Bắc tấn công phía Nam trước. Có nhiều lập luận để chứng minh, tài liệu bí mật ở Mátscơva tiết lộ bằng giấy tờ chứng minh lúc đó Bắc Triều Tiên đã xin phép Liên Xô và bàn với Trung Quốc, sau đó tấn công. Cũng có người chỉ qua suy luận cũng đoán được rằng Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc chiến tranh nổ ra. Ba ngày sau, quân của Kim Nhật Thành đã ào ạt tiến vào giải phóng hơn một nửa Nam Triều Tiên. Sau 4, 5 ngày chỉ còn tỉnh Bu San, là tỉnh bé tí ti ở phía Tây Nam. Điều đó chứng tỏ phải có sự chuẩn bị từ trước. Mỹ đứng ra cáng đáng cho Nam Triều Tiên, Mỹ đề nghị Hộ đồng bảo an Liên hợp quốc họp. Mỹ xin được quân của Liên hợp quốc. Quân của Liên hợp quốc đã giúp Nam Triều Tiên để chống lại Bắc Triều Tiên, thì phải có lý do gì đó. Qua 2 ví dụ đó, người ít có điều kiện tiếp xúc với tài liệu cũng có thể suy luận được rằng miền Bắc tấn công miền Nam.
Thế của Nam Triều Tiên lúc đó cũng giống như thế của Đài Loan với Trung Quốc. Họ chưa có tham vọng quay trở lại để giải phóng cả đất nước.
Đường lối giải phóng Nam Triều Tiên của Bắc Triều Tiên không được suôn sẻ. Khi quân của Liên hợp quốc tấn công trở ra, toàn bộ quân miền Bắc bắt buộc phải hậu thoát lui về phía Bắc, tận Ap-Lục giáp với Trung Quốc. Sau đó tràn trở xuống và giữ đúng vĩ tuyến 38 như hồi đầu chiến tranh, chết rất nhiều quân, nhiều tướng tài.
Đường lối đấu tranh thống nhất của Đảng có rất nhiều nan giải, vì khi rút khỏi miền Nam thì đã rút toàn bộ quân đội và những cơ sở cách mạng vốn đã có ở miền Nam. Cuối cùng ở miền Nam là khu vực rất trống, không còn một cơ sở hạt giống cách mạng nào, không giống như cuộc cách mạng giải phóng miền Nam của Việt Nam. Cách mạng giải phóng miền Nam của Việt Nam đã tác động rất nhiều vào đường lối cách mạng của Đảng Lao động Triều Tiên. Nhiều người thấy rằng việc đánh tràn vào Nam Triều Tiên năm 1950 là rất khó khăn mà phải theo kiểu Việt Nam, để cho nhân dân miền Nam tự phát động, miền Bắc ủng hộ, trong đánh ra ngoài đánh vào mới giành thắng lợi. Chính vì thế mà đã gây ra các cuộc tranh cãi và thanh trừng nội bộ Đảng rất gay gắt. Bao nhiêu người đã từng có tư tưởng mới và đã sang Việt Nam để học tập về đều bị thanh trừng hết, có đợt thanh trừng 6, 7 cán bộ cao cấp của quân đội, của Đảng. Cho nên trong nội bộ Đảng có rất nhiều rạn nứt trong việc đấu tranh thống nhất nước nhà thời gian đầu.
Về đường lối xây dựng kinh tế, cân đối giữa phát triển kinh tế với phát triển quốc phòng trong Đảng cũng rất nhiều tranh cãi và phe của Kim Nhật Thành vẫn là phe thắng. Ông Kim đã gạt bỏ những người có tư tưởng cho là hữu khuynh, không nhìn rõ kẻ thù, ảo tưởng về hòa bình. Đảng kiên quyết phát triển công nghiệp nặng, sau đó mới đến phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, do đó rất tốn kém tiền của, vì thế mà sự tin tưởng của nhân dân ở Đảng ngày càng giảm. Cũng chính vì đường lối phát triển không hợp lý, do vậy không thể thực hiện được ước mơ của Chủ tịch Kim Nhật Thành là “Toàn dân được ăn cơm trắng và chan canh thịt” cho đến tận bây giờ. Về mặt tổ chức của Đảng cũng không hoàn chỉnh. Trước năm 1980 thì cứ 5 năm đại hội Đảng một lần. Nhưng từ Đại hội VI (10/1980) đến nay – 23 năm không họp Đại hội Đảng. Vậy các chi bộ sinh hoạt kiểu gì? Bầu bán ông Kim lên làm Tổng bí thư như thế nào? Đó là chuyện rất lạ.
Quá trình đưa ông Kim con lên làm lãnh tụ, sẽ nói sau. Riêng chuyện bầu ông làm Chủ tịch Đảng là cách làm rất độc đáo, không có Đảng nào làm như thế cả. Theo như báo Đảng cho biết, ông Kim sinh hoạt trong một chi bộ, được chi bộ suy tôn lên làm Tổng bí thư. Một người có ý kiến như vậy, chả ai dám phản đối cả. Ai mà phản đối là phải rút thẻ Đảng ngay. Cuối cùng cả chi bộ phải đồng ý. Chi bộ báo cáo lên Đảng ủy khu. Đảng ủy khu lại phổ biến cho các chi bộ khác. Cũng không có chi bộ nào dám phản đối cả, cứ theo vết dầu loang đó, cả nước suy tôn ông Kim Châng In làm Tổng bí thư của Đảng, không có một cái phiếu bầu, không có một cái biên bản, không cần có một Đại hội nào cả. Tự dưng ông làm Tổng bí thư, kỷ luật Đảng, tổ chức Đảng không chặt chẽ, theo một sự duy ý chí. Tất nhiên là ông ấy đã bật đèn xanh cho một tay nào đó làm. Bên trong thì không ai có thể hiểu được, nhưng hình thức bên ngoài thì là chuyện có thật, viết ở trên báo.
Quá trình lên nắm chính quyền của Kim con là do Kim Nhật Thành (Kim bố) chọn làm người thừa kế.
Về gia đình của Kim Nhật Thành: Bà vợ trước có 3 con trai. Kim Châng In là thứ 3. Ông rất lười học, chỉ thích chơi. Ông đã phá không biết bao nhiêu xe Mercedes của bố. Ông tập cả lái máy bay phản lực, tập cả phi ngựa. Nhìn ảnh ông thì ta thấy rất xấu tướng, bẩn tướng, tóc lúc nào cũng dựng ngược lên, môi thì thâm như có bệnh tim, da dẻ thì xỉn. Cho nên mỗi khi ông xuất hiện, các phóng viên ảnh thi nhau chụp và tập trung chụp vào cái môi để chứng minh là ông ta có bệnh tim. Chỉ được cái Kim con rất hăng hái với phụ nữ. Các cô diễn viên điện ảnh xinh xinh, đẹp đẹp là được tướng quân “chỉ đạo” tại chỗ, nhiều lắm. Tại sao tôi nói vậy, vì từ thời anh Nguyễn Văn Trọng, phó ban đối ngoại Trung ương Đảng làm Đại sứ ở bên ấy, có một cô con gái học ở Trường Đại học Kim Nhật Thành có mấy bạn gái người Triều Tiên rất xinh. Một cô đã nói với con gái anh Trọng: Làm con gái đẹp ở Triều Tiên nhục lắm. Tao đã bị tướng quân đưa lên “chỉ đạo” ở trên đó một đêm. Giờ tao chỉ muốn chết. Chỗ nào có bông hoa đẹp là ông ấy hái ngay.
Bà vợ hiện nay của ông Kim Châng In cũng là một diễn viên điện ảnh. Bà này đã có chồng, có con rồi. Ông Kim thích, thế là bà ta dứt khoát bỏ chồng để lấy ông Kim Châng In.
Nói rộng ra thì Kim Nhật Thành cũng thế. Bố nào con nấy. Trong nhà Kim Nhật Thành có cái bể tắm bát tiên, bể tắm lục tiên, tức là 6 hoặc 8 cô gái trẻ cùng tắm với ông ta. Về sau khi tuổi già, bác sỹ riêng của ông ta luôn luôn phải thay máu của ông ta bằng máu của các cô gái trẻ. Vì máu là cái quyết định sinh khí của con người, máu đó sẽ quyết định anh già hay trẻ, thay được máu trẻ vào thì khả năng sống và sức trẻ của con người sẽ rất tốt và mạnh mẽ hơn. Vì vậy cứ định kỳ là thay máu để kéo dài tuổi thọ. Thứ hai là tại sao lại bắt 8 cô, 6 cô cùng tắm với ông ta, vì để trao đổi iông giữa người già và người trẻ, sẽ tăng cường sức trẻ của người già. Kim con được chọn là người thừa kế duy nhất và đã được Kim bố chuẩn bị rất chu đáo. Khi còn sống Kim bố đã tuyên bố: “Tôi sẽ chọn đồng chí Kim Châng In làm người thừa kế, vì tôi thấy đồng chí Kim Châng In có rất nhiều phẩm chất và năng lực công tác, đạo đức cách mạng, có nhiều khả năng thay thế tôi làm việc, cho nên tôi tin rằng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ủng hộ để đồng chí Kim Châng In làm việc”.
Vì vậy khi Kim Châng In lên là nghĩ ngay muốn giữ gìn được an ninh chính trị phải nắm được 3 lực lượng: một là quân đội để có sức mạnh trị vì đất nước; thứ hai là lực lượng an ninh để phát hiện được những chỗ hỏng hóc trong xã hội để chấn chỉnh, để dẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải nắm được lực lượng trẻ, đó là lực lượng thanh niên. Nhưng khi lên nắm quyền thì mạnh nhất là nắm được quân đội và một nửa thanh niên. Còn an ninh thì không nắm được. Ông ta nghĩ rằng cũng như các thời đại vua chúa khác, không có quân mạnh thì không trấn yên được bờ cõi, không dẹp được loạn trong nước. Vả lại quân đội là loại nước sông công lính, tuyển vào không phải trả lương, bắt đi lao dịch ở đâu là phải đi. Cho nên rất nhiều công trình lớn của Triều Tiên phần lớn đều do lực lượng quân đội làm, kể cả đập chắn nước lớn bên bờ biển Tây. Thời hạn nghĩa vụ của Bắc Triều Tiên hiện nay tăng từ 7 năm lên 14 năm. 14 năm thì coi như hết cả đời thanh xuân của họ.
Quá trình đưa Kim Châng In lên nắm quyền (1975) trong nội bộ Đảng đã có rất nhiều thắc mắc. Những năm đó số cán bộ cốt cán của triều đình còn rất nhiều, về tuổi đời, năng lực làm việc, công lao với cách mạng rất lớn. Thế mà lại đưa một anh còn trẻ măng mới học trong trường – khoa kinh tế – để thay thế, không khỏi có nhiều người phản đối. Vì vậy muốn duy trì được ý định của mình, Kim Nhật Thành phải thay đổi rất nhiều cán bộ để duy trì chế độ cha truyền con nối.
Khi ông Kim Nhật Thành chết đột ngột ngày 8 tháng 7 năm 1994, người ta tưởng đây là cơ hội thuận lợi để ông Kim con lên nắm tất cả các chức quyền trong Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ. Nhưng đến tháng 5 năm 1998, tức là 4 năm sau Quốc hội mới họp, lúc đó ông Kim Châng In mới lên nắm các chức vụ Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Hội đồng quân sự Nhà nước. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998 thì Hội đồng quân sự Nhà nước thâu tóm toàn bộ quyền hành kể cả về Đảng lẫn chính quyền trong đất nước. Người làm Chủ tịch Hội đồng quân sự Nhà nước thâu tóm toàn bộ các quyền, kể cả quyền phát động chiến tranh. Như vậy ông Kim con đã giữ hai chức vụ to nhất của đất nước. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998, toàn Đảng, toàn dân Triều Tiên suy tôn đồng chí Kim Nhật Thành làm Chủ tịch nước vĩnh viễn của Nhà nước Triều Tiên, không có ghế Phó chủ tịch nước. Kim con cũng muốn giữ chức vụ chủ tịch nước nhưng trong quá trình đấu đá nhau không thể ngồi được, nên quy cho ông Kim bố làm chủ tịch vĩnh viễn, mặc dù ông ta đã chết, đang nằm dưới đất. Như vậy không ai nhảy được vào chiếc ghế này. Như vậy, tất cả các quyền hành đều nằm trong tay Kim con. Cho nên có chuyện vui khi ông Đại sứ Bắc Triều Tiên sang nhậm chức tại nước ta năm 1997, trình quốc thư: Trong thư trình thì người ký lại là ông Kim Nhật Thành, mặc dù ông đã chết được 3 năm rồi. Bộ Ngoại giao ta không chấp nhận, đề nghị bạn về báo cáo, sau đó thông tin cho Việt Nam biết. Sau đó Bộ Ngoại giao bạn đề nghị ta chấp nhận vì nước bạn lúc đó chưa có chủ tịch nước chính thức nên cứ tạm thời để Kim Nhật Thành ký. Bạn cho biết một số nước khác đã chấp nhận như vậy. Cuối cùng Bộ Ngoại giao xin ý kiến Trung ương. Trung ương chấp nhận mặc dù người đã chết vẫn ký văn bản cho người đang sống. Qua đó ta thấy trong Đảng bạn cũng đấu tranh quyền lực ghê gớm lắm.
Khi Kim Châng In tốt nghiệp cấp III, ông có sang Liên Xô vào Trường Đại học Lômônôxốp tham quan. Sau đó ông ta về nước và nói học ở trong nước cũng tốt. Câu nói “học ở trong nước cũng tốt” của ông đã trở thành phương châm giáo dục của Bắc Triều Tiên. Từ đó trở đi không gửi lưu học sinh ra nước ngoài. Mãi gần đây có một số học sinh do các tổ chức quốc tế mời đi tham quan, hoặc đi du lịch 1, 2 tháng rồi về, nhưng thường không được trọng dụng. Phương châm giáo dục của Kim Châng In đưa ra là phải đào tạo trở thành những trung thần chỉ biết có trung thành với một lãnh tụ là Kim Châng In mà thôi.
Vấn đề tự hào dân tộc thì rất quá đáng. Lãnh tụ Kim Nhật Thành đã nói chỉ có đúng, chứ không bao giờ không đúng vì Hiến pháp năm 1998 sửa đổi đã ghi rõ đường lối kinh tế là theo đường lối Thanh Sơn Lý (Làng Thanh Sơn). Đường lối Thanh Sơn Lý do ông Kim Nhật Thành đề ra năm 1959. Đường lối này là Đảng lãnh đạo kinh tế, tất cả đảng viên tập trung vào thực hiện nghị quyết của Đảng về kinh tế. Bí thư chi bộ của làng đứng ra phân công lao động: Tổ này đi bới cỏ, tổ kia đi bắt sâu. 8 giờ ra đồng, đến 10 giờ giải lao 15 phút hát mấy câu, cờ lá chuối cắm khắp cả cánh đồng, đánh trống ầm ĩ. 11 giờ nghỉ về ăn cơm. Như vậy thì làm sao nông nghiệp phát triển được.
Thí dụ thứ 2: Năm 1999, anh Trần Văn Đăng sang thăm Bắc Triều Tiên, đi thăm rất nhiều nơi, có những tòa nhà diện tích mặt bằng 2000 m2 , cao 5, 6 tầng. Hỏi ai thiết kế. Họ nói chúng tôi thiết kế, xây dựng trong một năm. Đến đâu hỏi đều được bạn trả lời trong một năm. Đến tàu điện ngầm, anh Đăng hỏi: Ga tàu điện ngầm xây trong bao lâu. Họ lại nói trong một năm. Ở nhà máy sản xuất xi măng, máy móc đều nhập của Hà Lan, đều dán tem sản xuất tại Hăm Buốc (Tây Đức) và Hà Lan. Khi phóng viên hỏi họ nói chúng tôi tự sản xuất lấy. Trong khi đó các chuyên gia Hà Lan đang cầm máy bộ đàm để chỉ đạo sản xuất, lắp ráp. Họ vẫn bảo tất cả kỹ thuật của Triều Tiên. Chúng tôi thiết kế, thi công, lắp đặt, vận hành. Tất cả là theo đường lối chỉ đạo của Kim Châng In.
Ông Kim Châng In cũng rất thích có tiếng tăm. Năm 1989 có Đại hội Thanh niên thế giới họp tại Bình Nhưỡng, ông chỉ đạo xây khách sạn Liễu Cảnh 105 tầng, hình tháp có 3 chân chĩa ra như đuôi của cái tên. Xây được một năm thì móng đã bị nghiêng. Báo chí ngày nào cũng đăng tin: Hôm nay xây được một tầng, hôm nay xây được hai tầng. Sau đó bỗng thấy báo chí im hẳn. Hóa ra móng nghiêng, không làm nữa. Đến bây giờ xi măng đã mọc rêu, trên đỉnh vẫn còn có cái cần cẩu để trên đó. Rất nhiều nước xin vào gia cố, nhưng họ không cho. Lãnh tụ đã làm, đã nói là đúng, có sai cũng để đấy thôi.
Hiện nay xã hội Triều Tiên nói Đảng là gì: Đảng là lãnh tụ, lãnh tụ là Đảng. Nhìn vào lãnh tụ là biết Đảng ra sao.
Về giáo dục của bạn là hình thức chủ nghĩa, hời hợt. Bạn đã biết trên thế giới đang phát triển về mọi mặt, nên bạn cũng rất lo, đang tìm cách giải quyết, không thể để mãi tình trạng hiện tại, sợ sẽ đảo chính. Tin đảo chính thì nhiều, nhưng chúng tôi cũng không nắm được chính thức. Nhưng tự dưng có vụ nổ, họ nói đó là đảo chính.
Bắc Triều Tiên cũng đang tìm cách để thoát ra khỏi khó khăn. Kim Châng In khẳng định: Trên thế giới này chỉ có một siêu cường, đó là Mỹ. Khi mà khai thông được với Mỹ thì khâu trung tâm sẽ khai thông được tất cả các quan hệ khác. Đó là tư tưởng thông suốt chỉ đạo của Kim Châng In. Vì không mặc cả được với Mỹ và Hàn Quốc về kinh tế, phải mặc cả với Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Năm 1985 đã xây dựng phát triển vũ khí hạt nhân. Còn việc Bắc Triều Tiên đã có vũ khí hạt nhân chưa thì hiện tại chưa ai khẳng định được. Nhưng Mỹ cũng phải nể và Bắc Triều Tiên cũng đã kéo được Mỹ vào bàn hội đàm và ký được hiệp định khung năm 1994. Qua hiệp định, Mỹ yêu cầu Bắc Triều Tiên không sản xuất vũ khí hạt nhân nữa, Mỹ sẽ xây dựng cho Bắc Triều Tiên một nhà máy phát điện bằng năng lượng hạt nhân nguyên tử, trị giá năm 1994 khoảng 4,6 tỷ USD, tính trượt giá đến bây giờ phải non 10 tỷ USD.
Trên đà thắng đó, Bắc Triều Tiên tiếp tục dùng con bài hạt nhân để mặc cả với Mỹ với mục đích bắt Mỹ phải ngồi bàn trực tiếp với Bắc Triều Tiên như thiết lập quan hệ đối ngoại, viện trợ kinh tế cho Bắc Triều Tiên. Từ chuyện đó bắt buộc Nhật cũng phải thiết lập quan hệ ngoại giao, phải viện trợ cho Bắc Triều Tiên.
Bây giờ Mỹ và thế giới cứ phải quan tâm đến vũ khí hạt nhật của Bắc Triều Tiên, mặc dù không biết thực hư sẽ ra sao. Nhiều người cho rằng Bắc Triều Tiên nói vậy chứ làm gì có vũ khí hạt nhân vì tiềm lực kinh tế yếu, tổng sản phẩm quốc dân có 15 tỷ USD. Trong khi đó, Hàn Quốc có 500 tỷ USD. Nhưng mà ai cũng sợ vì tính khí của họ là tên khủng bố quốc tế rồi. Nhật và Hàn Quốc rất sợ vì họ có một cơ ngơi khang trang đẹp đẽ, rất cần có một không khí hòa bình ổn định để phát triển làm ăn kinh tế. Họ rất sợ chiến tranh. Cho nên nếu mà Mỹ làm căng với Bắc Triều Tiên thì Hàn Quốc và Nhật Bản lại phải lạy van Mỹ vì Mỹ đánh nhau với Bắc Triều Tiên thì chỉ thanh lý được một số vũ khí từ chiến tranh thế giới thứ hai đến giờ. Còn nếu chiến tranh nổ ra thì Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ bị thiệt hại trước tiên và rất lớn. Mỹ cũng rất muốn đánh Bắc Triều Tiên. Có 2 lần, đó là cuối năm 1994, Mỹ đã định dội bom nguyên tử xuống Bắc Triều Tiên. Thông tin này đã được kết luận. Tháng 12 năm ngoái, Mỹ cũng đã định đánh Bắc Triều Tiên một lần nữa, nhưng Hàn Quốc và Nhật Bản lại can.
Tại sao lại gọi Bắc Triều Tiên là khủng bố quốc tế vì ngay từ lâu đã có tư tưởng dùng bạo lực để ám sát, triệt lãnh đạo của Hàn Quốc. Năm 1988, Tổng thống Hàn Quốc đi thăm Rang-un (Miến Điện), đến thăm nghĩa trang Nhà nước. Bắc Triều Tiên đã cử 2 đặc công sang cài mấy quả mìn ở cổng nghĩa trang. Rất may xe của Tổng thống vừa đi qua thì mìn nổ, 4 xe tiếp theo chở các Bộ trưởng và tùy tùng thì chết. Xe của Tổng thống thì thoát. Sau đó an ninh Miến Điện cho lùng soát và bắt được 2 người Bắc Triều Tiên. Sau đó là vụ “quả bom nước 20 tỷ tấn” định dội vào Hàn Quốc. Vì khu vực núi Kim Cương Sơn do rất nhiều trái núi hợp thành hệ thống núi. Bắc Triều Tiên cho xây chắn núi nọ với núi kia thành ra một cái bể chứa 20 tỷ mét khối nước. Mỗi mét khối nước nặng 1 tấn. Người ta gọi là 20 tỷ tấn. Đập đó cách thủ đu Xê-un 100 km và cao hơn thủ đô Xê-un hơn 1000 mét. Nếu Bắc Triều Tiên cho đặt 1 tấn bộc phá ở dưới chân đập và cho nổ đồng thời thì 20 tỷ tấn nước này sẽ thổi thủ đô Xê-un bay sang biển Đông như ta lấy một thùng nước hắt một cái lá tre xuống cống. Cho nên thế giới gọi Bắc Triều Tiên là tên khủng bố quốc tế và phản đối kịch liệt. Thế giới đã giúp thành phố Xê-un xây một cái đập, gọi là đập Hòa Bình cong cong để chắn lượng nước từ bên kia tràn sang, sẽ tóe sang hai bên.
Sau đó lại có vụ nổ máy bay của hãng hàng không Koreairlines của Hàn Quốc năm 1988 làm chết mấy trăm người. Rồi là bắt cóc người Nhật về Bắc Triều Tiên. Rồi việc thanh trừng nội bộ rất nhiều. Cuối cùng Mỹ đã quy Bắc Triều Tiên vào danh sách nước ủng hộ khủng bố quốc tế.
Bắc Triều Tiên quan hệ với Việt Nam cũng có rất nhiều trắc trở. Bắc Triều Tiên rất cơ hội chủ nghĩa và vì quyền lợi dân tộc hẹp hòi, chẳng có vì quốc tế cộng sản hay vì cái gì hết. Thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, Bắc Triều Tiên cũng ủng hộ nhưng với tinh thần là để chia lửa với Hàn Quốc, để Mỹ tập trung quân đánh Nam Việt Nam, để cho Nam Triều Tiên rảnh tay đỡ chuyện tranh giành khu vực bán đảo Triều Tiên. Chính vì thế nhiều khi Việt Nam cần thì Bắc Triều Tiên không ủng hộ, lúc không cần thì lại dương cao ngọn cờ yêu cầu Việt Nam theo Bắc Triều Tiên lập ra Mặt trận châu Á chống Mỹ vào khoảng 1968-1970 là lúc cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam đang rất quyết liệt.
Khi Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, sáu tháng sau báo chí Bắc Triều Tiên vẫn không đưa tin thắng lợi vĩ đại của Việt Nam. Cả thế giới người ta hân hoan vui mừng, trống dong cờ mở để hoan hô Việt Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhưng ông bạn Bắc Triều Tiên vẫn cứ im lặng. Sau đó ta vận động, lúc đó báo chí mới đưa tin, nhân dân mới biết Việt Nam giải phóng rồi. Sau đó lại thôi luôn cho nên rất nhiều người về sau này không biết được Việt Nam đã giải phóng. Họ cho rằng các đồng chí Việt Nam không chịu chờ đợi để giải phóng Nam Triều Tiên đồng thời giải phóng Nam Việt Nam, như vậy là các đồng chí dồn hết khó khăn sang cho chúng tôi. Mỹ xong bên đó rồi sẽ quay sang đánh chúng tôi. Các đồng chí không có tinh thần quốc tế. Họ lập luận quái gở như vậy. Còn vấn đề vì lợi ích dân tộc hẹp hòi theo đuôi Trung Quốc trong vấn đề Campuchia chống Việt Nam thì rất lớn. Nhưng vì ta không bắt được tài liệu, không bắt được chuyên gia tại đấy, vì ta đánh Pôn Pốt theo kiểu xua chân, nếu đánh chụp, đánh bao vây thì chắc chắn bắt được nhiều chuyên gia của Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên thực ra cũng chẳng tốt gì với Việt Nam, nhưng lúc nào cũng có tư tưởng đòi nợ Việt Nam: trước kia, chúng tôi giúp các đồng chí trong chiến tranh chống Mỹ, bây giờ các đồng chí phải giúp chúng tôi. Các đồng chí không được quan hệ với Nam Triều Tiên. Nhưng do xu thế không thể đảo ngược được, các nước XHCN, Liên Xô, Trung Quốc đều đặt quan hệ với Nam Triều Tiên. Việt Nam cũng là nước XHCN cuối cùng đặt quan hệ với Nam Triều Tiên cho nên bạn đỡ hậm hực. Khi ta lập được quan hệ ngoại giao rồi thì lại khuyên ta chỉ đặt quan hệ ngoại giao, đừng đặt về quan hệ kinh tế, quan hệ với Đảng cầm quyền ở Hàn Quốc. Sau này, Tổng bí thư Đảng ta đi thăm Hàn Quốc, thiết lập quan hệ với Đảng cầm quyền của Hàn Quốc. Bạn cũng chẳng thể đảo ngược lại được, đành phải ngậm ngùi. Mặc dù vậy họ vẫn có những trắng trợn, thí dụ: viên đại sứ Bắc Triều Tiên hiện nay ở Việt Nam, khóa trước làm tham tán Sứ quán Triều Tiên ở Việt Nam, lúc đó là năm 1995, anh ta lên Bộ Ngoại giao khuyên chúng tôi: Các đồng chí đừng có tin Nam Triều Tiên kinh tế phát triển, họ không làm được ô tô, tivi…, mà họ mua của các nước khác về để tuyên truyền.
Trong khi đó, Việt Nam đã buôn bán với Hàn Quốc, các công ty của Hàn Quốc đã vào đầu tư ở Việt Nam và họ cũng biết chúng tôi đã từng công tác, học tập ở Hàn Quốc nhiều năm. Tóm lại, con người Bắc Triều Tiên là rất khó chịu, xã hội, lãnh đạo rất khó chịu, không hiểu nó là cái gì? Chúng tôi đã công tác ở Bắc Triều Tiên mấy chục năm, nhưng bây giờ nói Bắc Triều Tiên là cái gì thì rất khó.
Bắc Triều Tiên đưa ra tư tưởng chủ thể. Vậy tư tưởng chủ thể là gì? Đó là tư tưởng cho con người là chủ thể của cách mạng, cũng là chủ thể của vận mệnh của mình, của chính bản thân mình. Đó là nội dung của tư tưởng chủ thể. Nhưng mà việc thực hiện tư tưởng chủ thể thì lại thực hiện theo một ý đồ đằng sau những danh từ của tư tưởng chủ thể. Cho nên thế giới đánh giá tư tưởng chủ thể là loại tư tưởng đóng cửa, không tin vào bất cứ một ai, không tin vào bạn bè, đóng cửa chặt. Có người nước ngoài nói tư tưởng chủ thể là một loại tư tưởng phản động. Xã hội càng phát triển, càng văn minh lên thì tư tưởng chủ thể càng bộc lộ rõ tính phản động, kìm hãm sự phát triển. Nghe họ nói thì rất hay, nhưng làm thì rất dở. Thế giới sợ và ghét, ngại không muốn đến gần.
Tư liệu sưu tầm của Triệu Xuân

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

Anh là ai?

13/11/2011 

Nhạc sĩ Việt Khang sáng tác và trình bày

Xin hỏi anh là ai
Sao bắt tôi, tôi làm điều gì sai?
Xin hỏi anh là ai
Sao đánh tôi, chẳng một chút nương tay?
Xin hỏi anh là ai
Không cho tôi xuống đường để tỏ bày
Tình yêu quê hương này
Dân tộc này đã quá nhiều đắng cay?
Xin hỏi anh ở đâu
Ngăn bước tôi chống giặc tàu ngoại xâm?
Xin hỏi anh ở đâu
Sao mắng tôi bằng giọng nói dân tôi?
Dân tộc anh ở đâu
Sao đan tâm làm tay sai cho Tàu
Để ngàn năm ghi dấu
Bàn tay nào nhuộm đầy máu đồng bào?
Tôi không thể ngồi yên
Khi nước Việt Nam đang ngã nghiêng
Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm
Một ngàn năm hay triền miên tăm tối
Tôi không thể ngồi yên
Để đời sau con cháu tôi làm người
Cội nguồn ở đâu?
Khi thế giới này không còn Việt Nam

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

Góc nhìn: Vụ “Cù Huy Hà Vũ” – Sự ấm ớ đáng xấu hổ về truyền thông

Ai đã vô tình phong “thánh” cho TS Cù Huy Hà Vũ?
bl-n.jpg
Những điều cay đắng trên dẫn đến điều cay đắng tiếp theo là chúng ta bị quốc tế phản đối, bị đặt vấn đề về nhân quyền, bị nghi ngờ về những cam kết. Giáo sư Ngô Bảo Châu rất có lý khi cho rằng: “Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này”.
Vụ “Cù Huy Hà Vũ”: Sự ấm ớ đáng xấu hổ về truyền thông
Thật ra, việc ông Vũ bị phạt tù bao nhiêu năm không quan trọng. Cái quan trọng là phải hiểu vì sao ông ấy bị phạt tù. Theo thông tin chính thống thì ông Vũ bị phạt 7 năm tù về tội chống lại chế độ XHCN. Nhưng ông ấy chống như thế nào và tại sao ông ấy chống thì không được nói rõ ràng.
Cần phải hiểu rằng vụ án xử TS Cù Huy Hà Vũ là một cơ hội để nhận thức những vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc, như: Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là tuyên truyền chống chính quyền nhân dân? Làm thế nào để tăng uy tín quốc gia?… Đáng ra những vấn đề này phải được tranh tụng tại tòa, nhưng thật là buồn là ở phiên tòa vừa rồi không có phần tranh tụng vì các luật sư cho rằng Hội đồng xét xử đã vi phạm điều 214 Bộ Luật hình sự nên họ bỏ về.
Ấm ớ đến lố bịch
Vụ án TS Cù Huy Hà Vũ bộc lộ khía cạnh lố bịch về truyền thông trong thế giới hiện đại. Tòa của ta, xử người của ta, giữa Thủ đô của nước ta, ấy thế mà tôi lại phải theo dõi thông tin qua báo chí nước ngoài. Theo như thông báo, phiên tòa diễn ra vào 8 giờ sáng ngày 4/4/2011, nhưng vào lúc 10 giờ sáng, không thấy tờ báo mạng nào của ta tường thuật. Trong khi đó, vào lúc 9 giờ 26 phút, BBC đã có bài và có ảnh về quanh cảnh phiên tòa. Sau đó BBC liên tục cập nhật. Còn tất cả các báo chí của ta, đến chiều mới đồng loạt đưa tin ông Cù Huy Hà Vũ bị kết án 7 năm tù.
Điều đáng nói là ở chỗ cho đến lúc đó cũng không có tờ báo chính thống nào tường thuật trung thực, chi tiết về những gì đã diễn ra ở phiên tòa xử ông Vũ. Lại vẫn phải nhờ cậy đến báo chí nước ngoài mới biết được đôi điều.
Nếu căn cứ vào hai luồng thông tin thì thấy chúng mâu thuẫn nhau và không biết hiểu thế nào cho đúng. Có điều thông tin không chính thống cho thấy bức tranh toàn cảnh trung thực hơn, dễ hiểu hơn.
Theo Luật sư Trần Đình Triển và một số luật sư khác nữa thì phiên tòa xử ông Cù Huy Hà Vũ ngày 4/4/2011 vi phạm Luật tố tụng Hình sự ngay từ ban đầu và người vi phạm là Hội đồng xét xử. Ông Triển nói rất rõ ràng là Điều 214 Bộ luật Hình sự bị vi phạm nghiêm trọng. Chính Hội đồng xét xử mà lại vi phạm Luật thì còn gì để nói nữa?!
Coi chừng phản tác dụng!
Thật ra, việc ông Vũ bị phạt tù bao nhiêu năm không quan trọng. Cái quan trọng là phải hiểu vì sao ông ấy bị phạt tù. Theo thông tin chính thống thì ông Vũ bị phạt 7 năm tù về tội chống lại chế độ XHCN. Nhưng ông ấy chống như thế nào và tại sao ông ấy chống thì không được nói rõ ràng.
Cần phải hiểu rằng vụ án xử TS Cù Huy Hà Vũ là một cơ hội để nhận thức những vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc, như: Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là tuyên truyền chống chính quyền nhân dân? Làm thế nào để tăng uy tín quốc gia?… Đáng ra những vấn đề này phải được tranh tụng tại tòa, nhưng thật là buồn là ở phiên tòa vừa rồi không có phần tranh tụng vì các luật sư cho rằng Hội đồng xét xử đã vi phạm điều 214 Bộ Luật hình sự nên họ bỏ về. Còn ông Cù Huy Hà Vũ thì lại sẵn sàng nhận bất cứ bản án nào. Trong tình thế như vậy mà tòa vẫn tuyên án thì thật không hiểu được mục đích của phiên tòa là gì. Ấy thế nhưng các phương tiện thông tin chính thống vẫn thông báo rất hùng hồn về việc ông Vũ bị bị phạt 7 năm tù giam và 3 năm quản thúc. Phải chăng tòa và các phương tiện truyền thông đại chúng muốn biến ông Vũ thành “Mandela của Việt Nam ”?
Với cách xử án và thông tin như vừa qua, người ta không thấy ông Vũ phạm tội như thế nào, chỉ thấy ông hiên ngang chịu đựng mọi thứ người ta khoác lên đầu ông.
Những điều cay đắng đọng lại
Đọc những thông tin về vụ “Cù Huy Hà Vũ” trên báo chí chính thống, tôi có cảm giác các nhà báo của chúng ta không biết hành nghề (Mặc dù trên thực tế, chúng ta có nhiều nhà báo có trí tuệ, có bằng cấp, có kinh nghiệm và kỹ năng viết báo rất giỏi). Đó là điều cay đắng thứ nhất. Điều cay đắng thứ hai chính là ở trình độ, bản lĩnh của các quan tòa. Một vụ án quan trọng, đương nhiên phải cử những quan tòa giỏi ra để xét xử. Ấy vậy mà họ tỏ ra không hiểu biết pháp luật, hiểu biết đạo lý và thông lệ quốc tế. Điều cay đắng thứ ba là cách tổ chức phiên tòa và thái độ của các nhân viên an ninh. Việc ngăn đường, cấm đường, đánh người, bắt người có cần thiết không?
Những điều cay đắng trên dẫn đến điều cay đắng tiếp theo là chúng ta bị quốc tế phản đối, bị đặt vấn đề về nhân quyền, bị nghi ngờ về những cam kết. Giáo sư Ngô Bảo Châu rất có lý khi cho rằng: “Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này”.
Hồ Bất Khuất
Theo Blog hobatkhuat


GS Ngô Bảo Châu
Đối diện với ông Vũ là những người bắt ông bằng hai bao cao su đã qua sử dụng, là phiên tòa nửa công khai, nửa bí mật xảy ra ngày hôm qua và là ông quan tòa từ chối thực hiện thủ tục tố tụng để tránh tranh luận về nội dung những bài viết, chứng cớ về những việc được cho là vi phạm pháp luật của ông Vũ. Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này. Nghĩ mãi tôi cũng chỉ tìm ra hai cách lý giải. Khả năng thứ nhất là họ muốn làm nhanh cho xong việc. Trong trường hợp này, họ rất xứng đáng được truy cứu trách nhiệm. Khả năng thứ hai là ông quan tòa sợ phải đối mặt với những lý lẽ của ông Vũ. Trong trường hợp này, rất nên tạo điều kiện cho ông ta chuyển sang công tác khác, phù hợp hơn. Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ.

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

BS HỒ HẢI: VẤN ĐỀ NGOẠI GIAO

BS HỒ HẢI: VẤN ĐỀ NGOẠI GIAO: "Trong thời đại hiện nay, trong tất cả các ban ngành của một tổ chức doanh nghiệp hoặc của một đất nước vấn đề ngoại giao, có lẽ là vấn đề cố..."

Giữ vững và phát triển quyền "mở miệng"

Bùi Minh Quốc

Công cuộc đổi mới khởi sự bằng một chủ trương đúng đắn có tính nền móng, làm nức lòng người: NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT, NÓI ĐÚNG NÓI RÕ SỰ THẬT.

Ai phải nhìn thẳng vào sự thật, nói sự thật và chỉ nói sự thật?

Tất cả mọi người, từ những người có quyền và trách nhiệm cao nhất đến những người thấp cổ bé miệng nhất.

Nghĩa là tất cả mọi người phải “mở miệng” – như cách gọi thật giản dị, rành mạch và dứt khoát của Chủ tịch Hồ Chí Minh - mở miệng nói sự thật.

Mở miệng là nhu cầu tự thân tự nhiên như nhu cầu ăn uống hít thở, do đó hiển nhiên là một quyền, hơn nữa là một quyền thiêng liêng, của tất cả mọi người, của mỗi con người, từ em bé 6 tuổi mới biết đọc biết viết (xin mời đọc bài của nhà báo kỳ cựu Hoàng Hưng trên BVN về một em bé sáu tuổi hỏi mẹ chuyện giặc bành trướng Trung Quốc xâm hại vùng biển nước ta), đến lão thành cách mạng 96 tuổi Nguyễn Trọng Vĩnh với lời tuyên bố lay động mọi trái tim yêu dân yêu nước yêu tự do: “Còn hơi thở còn lên tiếng!”. Không những thế, đó còn là một nghĩa vụ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, cũng rất rành mạch và dứt khoát: “Đối với MỌI VẤN ĐỀ, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”. Xin nhấn mạnh mấy chữ “mọi vấn đề”, nghĩa là ngoài các qui định thật cụ thể thật rõ ràng của luật pháp thì không một ai, không một cơ quan, một tổ chức nào được phép đặt ra vùng cấm (hiện nay biến tướng và được che giấu dưới hai chữ “nhạy cảm”) trong việc tự do bày tỏ ý kiến.

Mặc dù chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định dứt khoát từ hơn 60 năm trước như thế, mặc dù đã có chủ trương của đại hội Đảng lần thứ VI từ 25 năm trước như thế, nhưng mở miệng nói sự thật là cả một cuộc chiến đấu, trước hết trong nội bộ Đảng (bài này chủ yếu đề cập đến nỗ lực mở miệng của các đảng viên, bộ phận khó mở miệng nhất) vô cùng gian nan trầy trật và không ít hiểm nguy ngay cả đối với các cán bộ cao cấp. Bởi vì trong cơ quan quyền lực, bên cạnh những người đề ra chủ trương mở miệng nói sự thật lại luôn ẩn náu những phần tử sợ sự thật; những phần tử này dần dà đã kết thành thế lực, đây là cái thế lực thẻ - đỏ - tim - đen nhân danh cách mạng dùng xương máu nhân dân và đảng viên để đúc thành ngai ghế vua quan cách mạng, và tất yếu nó phải lấy việc bưng bít sự thật để giữ ngai giữ ghế, nó huy động tất cả công cụ quyền lực và tiền bạc mà nó đang nắm để bưng bít sự thật, ngăn chặn và bóp méo thông tin, bịt mồm bẻ bút những người nói sự thật.

Nhưng những người chiến sĩ cách mạng vì dân vì nước cũng kiên quyết mở miệng nói sự thật cho bằng được. Như chiến sĩ cách mạng Kim Ngọc, từ giữa những năm sáu mươi thế kỷ trước, không sợ bị mất chức, thậm chí có thể mất Đảng, mất mạng, kiên quyết mở miệng nói (và làm) ngắn gọn: “ Khoán !”. Đây là nói và làm theo mệnh lệnh không phải từ trên áp xuống mà bật lên từ một thực tế bức bối – cuộc sống khốn cùng của người nông dân xã viên sắp chết đói ngay trên đồng ruộng vốn là của họ nhưng đã bị biến thành thứ tài sản tập thể cha chung không ai khóc - là mệnh lệnh đầy sức mạnh của một sự thật sắc nhọn đã chọc thủng cái tấm màn dối trá khổng lồ bao trùm toàn xã hội được dệt bằng những sợi xích giáo điều phản khoa học thâm căn cố đế trói buộc tư duy của cả một đảng luôn tự xác định là đảng khoa học và cách mạng. Noi gương Kim Ngọc, Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành (sau là Phó Thủ tướng) đã can đảm không thực hiện chỉ thị Z30, một chỉ thị đầy tội lỗi, phi lý phi pháp ra lệnh tịch thu tài sản của những người có nhà từ hai tầng trở lên, dù cho chỉ thị đã được triển khai thực hiện ở Hà Nội và báo Nhân dân có cả loạt bài phê phán những nơi chưa chịu thực hiện. Cùng mối tương tri tương đắc với Bí thư Thành ủy Hải Phòng, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định Nguyễn Văn An (sau là Chủ tịch Quốc hội) cũng không thực hiện chỉ thị Z30. Tại hội nghị BCH Trung ương Đảng giữa năm 1983, Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành đã khẳng khái lên tiếng phản đối chỉ thị Z30, trên cơ sở phân tích có lý có tình, căn cứ vào mục tiêu không thể tranh cãi của cách mạng là phải đem lại hạnh phúc cho dân. Chỉ thị Z30 đã phải bãi bỏ, tránh cho Đảng dấn sâu vào một sai lầm khốc hại và tránh cho dân một tai họa khủng khiếp như thời Cải cách ruộng đất và Cải tạo công thương nghiệp tư doanh. Sau này, khi trả lời phỏng vấn trên báo Pháp luật TP HCM, cựu Phó Thủ tướng Đoàn Duy Thành cho rằng: nếu chỉ thị Z30 không bị bãi bỏ mà đem thực hiện trên tất cả các tỉnh thành như ở Hà Nội đã làm thì chắc sẽ khó có đổi mới. Tôi (Bùi Minh Quốc) thì cho rằng không những khó có đổi mới mà còn khó tránh một thảm họa mới: đảng viên, trước hết là những cán bộ cao cấp trung kiên vì dân vì nước sẽ là nạn nhân của một cuộc “đồng chí” ăn thịt đồng chí, nhân dân sẽ là nạn nhân của một dạng diệt chủng mới, Đảng sẽ lâm vào một cuộc tự sát về chính trị và văn hóa còn trầm trọng hơn thời Cải cách ruộng đất, nước CHXHCN Việt Nam sẽ chẳng khác gì CHDCND Triều Tiên! Ngẫm lại thời ấy, vào năm 1983, khi hàng chục vạn bộ đội ta, một lực lượng lao động hùng hậu đang rất cần cho đất nước đã kiệt quệ sau 30 năm chiến tranh lại bị sa lầy ở Campuchia, biên giới phía Bắc thì vẫn luôn nóng bỏng, kẻ địch bành trướng đang ráo riết chuẩn bị thêm những đợt tấn công lớn (nhưng thông tin chính thức đến nay vẫn bị bưng bít), mới thấy hết tính chất đặc biệt nguy hiểm và thâm hiểm của chỉ thị Z30. Mà lại là chỉ thị miệng, không có tác giả (thực ra là có, đương nhiên là có, nhưng núp trong bóng tối, và cái cấu trúc của cỗ máy quyền lực không có cơ chế hãm bên trong và hệ thống giám sát từ bên ngoài với tình trạng công tác cán bộ nằm trong tay một người hoặc một nhóm người vận hành khép kín luôn lẩn tránh nguyên tắc công khai khiến cho những người chiến sĩ cách mạng dám mở miệng nói sự thật không thể truy kích đến cùng để làm rõ bản lai diện mục cái thế lực thẻ - đỏ - tim - đen sợ sự thật mang tên Z30 ấy, và nó vẫn tiếp tục từ trong bóng tối ra sức tác oai tác quái). Tương tự như Kim Ngọc, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn An, ở TP HCM, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt (sau là Thủ tướng) cùng các đồng chí chiến sĩ cách mạng chí cốt với quyết tâm sẵn sàng bị mất chức, sẵn sàng cơm đùm cơm nắm đi thăm nuôi nhau nếu có ai bị ở tù, đã dũng cảm dám nghĩ dám nói dám làm, dứt bung những rào cản giáo điều để thực hiện đổi mới, tạo cơ sở thực tiễn cho đường lối đổi mới chính thức được đại hội Đảng lần thứ VI thông qua. Viết đến đây, tôi xin được dừng lại một phút để thắp nén tâm hương tưởng niệm các chiến sĩ cách mạng Kim Ngọc, Võ Văn Kiệt với niềm tri ân sâu sắc. Đồng thời tôi cũng thắp lên nén tâm hương tưởng niệm và tri ân một con người thấp cổ bé miệng từ một làng quê nghèo bên bờ sông Chu – Thanh Hoá, một đêm kia đã dám mở miệng nói sự thật. Đó là nhà báo (huyện) Phùng Gia Lộc, tác giả bài bút ký nổi tiếng “Cái đêm hôm ấy …đêm gì?”, đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày 23 tháng 1 năm 1988. Phùng Gia Lộc không phải là nhà văn chuyên nghiệp, nhưng cái tình cảnh bị truy bức hãi hùng của người nông dân xã viên quê anh và chính gia đình anh dưới ách cả một tập thể cường hào thẻ đỏ chẳng khác gì tình cảnh “Bước đường cùng” của người nông dân trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng Tháng Tám 1945 đã buộc anh phải cầm lấy bút. Từ những dòng chữ trần trụi sự thật của anh bật lên tia chớp xé toang cái bóng đêm trung cổ bấy lâu trùm phủ đời sống nông thôn Việt Nam khiến cả xã hội giật mình. Trước hết là những người lãnh đạo phải giật mình sau mười mấy năm say sưa với đại thắng, miệng chỉ quen cao giọng những “vĩ đại”, những “vô địch” với “muôn năm”, tai chỉ quen nghe những lời xưng tụng bốc thơm hết cỡ như “hiện thực của ta là vô cùng tốt đẹp, chỉ cần sao chép nguyên xi cũng đủ để có tác phẩm lớn” (!) mà đích thân người viết bài này đã nghe Ủy viên Bộ chính trị Trưởng Ban tuyên giáo trung ương Tố Hữu phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị các nhà văn đảng viên (Hà Nội, tháng 6.1979, do Bí thư đảng đoàn Hội nhà văn Nguyên Ngọc chủ trì). Phùng Gia Lộc chỉ đơn giản ghi lại trung thực cái sự thật đời sống “vô cùng không tốt đẹp” mà bản thân anh và gia đình anh là một phần trong đó, chắc cũng không nhằm làm nên tác phẩm lớn, nhưng sự mở miệng của anh rõ ràng là vô cùng có ích. Tưởng niệm và tri ân Phùng Gia Lộc, tôi cũng đồng thời tưởng niệm và tri ân nhà thơ quá cố Bế Kiến Quốc – Biên tập viên báo Văn nghệ, người đã cưu mang Phùng Gia Lộc khi anh phải trốn khỏi Thanh Hoá để tránh sự hãm hại của cái thế lực Z30 hét ra lửa ở tỉnh nhà. Cũng cần phải thấy rằng, sự mở miệng của Phùng Gia Lộc khó có thể bật lên được nếu không có một bà đỡ mát tay là nhà văn Nguyên Ngọc – Tổng biên tập báo Văn nghệ. Dựa vào chỉ thị 15 của Ban Bí thư về đổi mới công tác báo chí và tiếp đó là nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hoá văn nghệ, tận dụng tối đa quyền hạn và trách nhiệm của một Tổng biên tập mà các chỉ thị nghị quyết ấy mở ra, đồng thời với tinh thần tích cực chủ động cao nhất, Nguyên Ngọc mau chóng đưa báo Văn nghệ trở thành một trong mấy tờ báo đi đầu trên mặt trận mở miệng (gọi chung là thông tin) nói sự thật. Bạn đọc xếp hàng từ sớm để chờ mua báo Văn nghệ. Rồi Lao động, Tuổi trẻ… Rồi Phụ nữ TP HCM, Sông Hương, Cửa Việt… hàng chục tờ báo, tạp chí nối tiếp nhau giành được sự quan tâm nồng nhiệt của bạn đọc ngày càng rộng rãi theo đà tăng lên của hàm lượng sự thật/thông tin. Sức mạnh của sự thật của thông tin đã khiến ông quan đầu tỉnh xứ Thanh mất ghế. Nhân dân khấp khởi hy vọng: mắt Đảng vẫn còn dám nhìn sự thật, tai Đảng vẫn còn biết lắng nghe tiếng kêu của dân, tim Đảng vẫn đập cùng một nhịp với tim dân, đời vẫn còn công lý. Niềm tin vào đổi mới được nhen thêm. Nhưng ít ai biết vẫn có một thế lực Z30 núp trong bóng tối luôn nhân danh “sự lãnh đạo của Đảng” để giữ ngai giữ ghế vua quan cách mạng bằng những đòn phép kiểu Cải cách ruộng đất và Cách mạng văn hoá Tàu, tất nhiên được Việt Nam hóa bằng những thủ thuật ngụy trang rất xảo quyệt. Ban chấp hành Hội nhà văn (họp giữa tháng 9.1988) ra nghị quyết phê phán báo Văn nghệ “lệch lạc nghiêm trọng”. Tổng biên tập Nguyên Ngọc bị “thôi” chức (cách chức trá hình dưới dạng chuyển sang nhiệm vụ phụ trách hậu cần cho đại hội của Hội sắp họp). Điều đáng buồn là tại Hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn, cơ quan lãnh đạo của một tổ chức thoát thai từ Văn hóa Cứu Quốc gồm toàn những chiến sĩ – nghệ sĩ, những người tự coi và được coi là đại diện cho lương tri của dân tộc, lại không có một chiến sĩ nào dám đứng lên phát biểu chủ kiến riêng của mình như Đoàn Duy Thành tại Hội nghị Trung ương, như Đốt-xtôi-ép-xki đại văn hào Nga đã viết từ hàng trăm năm trước: “Bước một bước mới, nói lên một lời mới do chính mình nghĩ ra”. Không, không một ai dám như thế, mặc dù họ đã đọc Đôtx, đã thừa biết tư duy độc lập, tự do ngôn luận là chuyện sinh tử của người trí thức, họ đều tâm đắc những lời này của F. Mit-tơ-răng (Tổng thống Pháp): “Im lặng nuôi dưỡng tội ác”, của M. Bun-ga-cốp (nhà văn Nga thời xô-viết): “Không có một nhà văn nào lại có thể im lặng được. Nếu y im lặng thì có nghĩa đó không phải là nhà văn chân chính. Còn nếu một nhà văn chân chính mà im lặng thì y sẽ chết”. Tiện thể kể thêm, đây là lần thứ hai Nguyên Ngọc bị mất chức. Lần đầu là sau Hội nghị nhà văn đảng viên (tháng 6/1979) đã kể trên. Tại hội nghị quan trọng đó, với cương vị Bí thư đảng đoàn, Nguyên Ngọc đọc báo cáo đề dẫn nêu lên những ý tưởng đổi mới được đánh giá là rất mạnh bạo để hội nghị thảo luận (xin mời đọc “Mấy kỷ niệm làng văn bị trói” của Bùi Minh Quốc trên mạng internet). Quả nhiên “Đề dẫn” lập tức tạo ra trong hội nghị một không khí hồ hởi chưa từng có, được thảo luận một cách dân chủ và thoải mái, sôi nổi. Nhưng ngày thứ ba của hội nghị, Ủy viên Bộ chính trị Trưởng Ban tuyên giáo trung ương Tố Hữu đến phát biểu, đập tơi bời những luận điểm cơ bản của “Đề dẫn” mà hội nghị qua thảo luận đã tán thành. Bao nhiêu hồ hởi ngày hôm trước lập tức xẹp xuống, thay vào đó là một không khí hoang mang, ngơ ngác, lo sợ. Nhưng, thật đáng khâm phục, giữa bầu khí nặng nề ấy, khi phát biểu bế mạc, Bí thư đảng đoàn Nguyên Ngọc vẫn rất kiên quyết và cũng rất mềm mỏng mở miệng nói sự thật bằng kết luận:“Qua thảo luận, hội nghị đã cơ bản nhất trí với “Đề dẫn”, đồng thời chúng ta cần nghiêm túc nghiên cứu ý kiến đồng chí Tố Hữu”. Nguyên Ngọc đã tỏ rõ bản lĩnh tư duy độc lập, sáng tạo của người trí thức chân chính, và khí phách của người chiến sĩ chiến đấu cho Tự do. Với tư cách Bí thư đảng đoàn, anh một lần nữa nhắc nhở các đồng chí của mình trong Hội một điều cốt tử mà người ta dễ quên khi có chức có quyền: Tự do là giá trị cao quý nhất, chức vụ mà Đảng giao cho ta không phải là cái ghế để hưởng đặc quyền đặc lợi mà là vị trí chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng chiến đấu cho Tự do. Tôi cho rằng, kể từ sau ngày 30.4.1975, trên phạm vi cả nước, chỉ bằng mấy tiếng ngắn gọn chắc nịch “Hội nghị đã cơ bản nhất trí với Đề dẫn”, Bí thư đảng đoàn Nguyên Ngọc là người đầu tiên công khai ôm khối bộc phá “Đề dẫn” xông lên mở cửa đột phá cho mặt trận mở miệng/thông tin. Nghe vang lên câu thơ quyết liệt rực lửa Tự do của Thu Bồn: “Hỡi những người nô lệ đừng quên/Tôi là bộc phá viên!”. Sau Hội nghị nhà văn đảng viên, Nguyên Ngọc bị kiểm điểm (thực chất là bị đấu tố, truy bức), hứng chịu những làn đạn công kích khét lẹt mùi Z30. Trên mặt báo, xuất hiện loạt bài đánh Nguyên Ngọc, và đánh Hoàng Ngọc Hiến, tác giả của luận điểm nổi tiếng có tính phát hiện về “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” như một đặc điểm, một chỗ yếu trầm trọng của văn học Việt Nam hiện đại đăng trên Văn nghệ được/bị coi là do sự chỉ đạo của Bí thư đảng đoàn Nguyên Ngọc. Ác hại và bi đát thay, trong số những loạt đạn ngôn từ khét lẹt mùi Z30 lại có cả hỏa lực của các xạ thủ bậc thầy, các tên tuổi tầm cỡ, mới đó vừa cùng ngồi trong đảng đoàn nhiệt liệt tán đồng và thông qua bản “Đề dẫn” do Nguyên Ngọc soạn thảo. Ở lần mất chức thứ hai của Nguyên Ngọc thì tình hình có khác, giữa khí thế đổi mới đang mạnh, các tên tuổi tầm cỡ kia không dám xuất đầu lộ diện trên mặt báo, chỉ dùng mấy bức thư gửi Ban bí thư và Ban chấp hành Hội (đồng thời truyền tay trong hội viên) để đả kích Nguyên Ngọc và gián tiếp miệt thị Trưởng Ban văn hóa văn nghệ trung ương Trần Độ, người có công chuẩn bị cho Bộ Chính trị ra Nghị quyết 05, một nghị quyết làm nức lòng giới văn nghệ lúc bấy giờ mà chính các tác giả mấy bức thư kia từng hồ hởi tán dương. Trong khi đó nhiều tờ báo, nhất là Tuổi trẻ, rộ lên những tin bài bênh vực báo Văn nghệ và Tổng biên tập Nguyên Ngọc. Tạp chí Lang Biang số 3 của Hội Văn nghệ Lâm Đồng do Bùi Minh Quốc Chủ tịch Hội làm Tổng biên tập ra tháng 6.1988 đăng “Đề dẫn” của Nguyên Ngọc (đây là ấn phẩm đầu tiên và duy nhất công bố “Đề dẫn”). Thượng tuần tháng 11.1988, Hội Văn nghệ Lâm Đồng thực hiện một chuyến đi dọc miền Trung và Tây Nguyên ký chung kiến nghị với một số hội bạn gửi Trung ương yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết 05 để sớm thực hiện, đồng thời cùng một số cán bộ chủ chốt của các hội bạn và nhiều anh chị em viết văn viết báo và các công dân hưởng ứng đổi mới ký chung một bản tuyên bố yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đánh giá cao đóng góp tích cực của tuần báo Văn nghệ và Tổng biên tập Nguyên Ngọc, nghiêm khắc phê phán những biểu hiện đổi mới chập chờn, những hành động cản trở đổi mới, phản đối nghị quyết của Ban chấp hành Hội nhà văn về báo Văn nghệ, yêu cầu cách chức một số người trong Ban tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin. Bản tuyên bố được tham gia ký bởi nhiều người ở các địa phương dọc đường mà đoàn Văn nghệ Lâm Đồng đi qua, ra đến Hà Nội tổng cộng có 118 chữ ký. Tháng 12.1988, báo Nhân dân đăng bài của Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương Trần Trọng Tân có đoạn phê phán điều gọi là “hoạt động bè phái của một số người trong Hội Văn nghệ Lâm Đồng”. Năm 1995, tại Đại hội lần thứ 5 Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Xuân Cang Trưởng Ban kiểm tra của Hội công bố báo cáo kiểm tra có phần đánh giá hoạt động của hai nhà văn Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự trong chuyến đi của đoàn Văn nghệ Lâm Đồng là “bình thường, bổ ích và phù hợp với quá trình dân chủ hóa, không có biểu hiện bè phái”. Cũng trong khuôn khổ Đại hội lần thứ 5 Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng bí thư Đỗ Mười mời gặp nhà thơ Bùi Minh Quốc, người chịu trách nhiệm về hoạt động trong chuyến đi của đoàn Văn nghệ Lâm Đồng, trực tiếp nghe báo cáo vụ việc và hứa sẽ giao cho Ban tổ chức Trung ương, Ủy ban kiểm tra Trung ương nắm lại nội dung vụ việc và sẽ có văn bản kết luận (cùng dự nghe còn có các Ủy viên Bộ Chính trị Đào Duy Tùng và Nguyễn Đức Bình). Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một văn bản kết luận nào của Trung ương về vụ này. Điều đó càng cho thấy những người lãnh đạo ở cấp cao nhất đã mặc nhiên thừa nhận nội dung tuyên bố 118 chữ ký là đúng đắn và nhạy bén, báo động rất sớm về những hành động kiểu Z30 cố ý thủ tiêu quyền mở miệng nói sự thật của trí thức văn nghệ sĩ và của toàn dân.Tiếp theo việc Nguyên Ngọc bị “thôi” chức là Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự (Hội Văn nghệ Lâm Đồng) bị khai trừ, cách chức. Rồi Xuân Cang (TBT báo Lao động), rồi Kim Hạnh (TBT báo Tuổi trẻ), Tô Nhuận Vỹ (TBT tạp chí Sông Hương), Hoàng Phủ Ngọc Tường (TBT tạp chí Cửa Việt), Thế Thanh (TBT báo Phụ nữ TP HCM) phải rời khỏi chức vụ một cách êm nhẹ, gọi lịch sự là chuyển công tác theo sự phân công của tổ chức.

Tất cả những biện pháp về tổ chức phi lý, bất công, độc đoán nêu trên đều nhằm thủ tiêu chủ trương mở miệng nói sự thật, đẩy văn nghệ sĩ trí thức và hoạt động báo chí xuất bản chui trở lại vào vòng trói buộc mà mới đó vừa được hô “cởi trói”. Số lượng báo chí ngày càng tăng nhưng hàm lượng sự thật/thông tin trên mặt báo ngày càng sa sút, nhất là thông tin về sự hoành hành của giặc bành trướng và giặc nội xâm – hai hiểm họa lớn đang hàng ngày đè nặng lên vận mệnh Tổ Quốc và đời sống nhân dân. Nhà thơ (tự do) Nguyễn Viện dồn dập nêu câu hỏi (trên mạng internet):

1. Quốc hội Việt Nam người Tàu hay người Việt?

2. Chính phủ Việt Nam người Tàu hay người Việt?

3. Báo chí và Truyền hình Việt Nam quan tâm đến cái gì nhất:

A- Bóng đá?

B- Sexy show Hoàng Thùy Linh, Yến Vi?

C- Tàu chiếm Hoàng Sa & Trường Sa?

4. Bao nhiêu người có câu trả lời giống bạn?

Báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng lại không phải là tờ báo thể hiện được vai trò tiền phong gương mẫu trong nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, mở miệng/thông tin nói sự thật, chống bành trướng, chống nội xâm, thực hành dân chủ. Tổng biên tập Báo điện tử ĐCSVN Đào Duy Quát đưa tin (vô tình hay cố ý?) có lợi cho thế lực bành trướng, phương hại đến việc khẳng định chủ quyền biển đảo của quốc gia nhưng chỉ bị cảnh cáo trong khi đáng lẽ phải khai trừ cách chức ngay lập tức, một kiểu xử lý rất hữu khuynh nếu không nói là biểu hiện của thái độ chư hầu. Mà rõ là một kiểu tự bày tỏ tư cách chư hầu rồi chứ còn gì nữa, khi mà vào dịp kỷ niệm 30 năm giúp nước bạn Campuchia thoát nạn diệt chủng (7.1.1979 – 7.1.2009), chiến thắng giặc bành trướng xâm lược các tỉnh biên giới phía bắc (17.2.1979 – 17.2.2009), báo chí im tịt không một dòng tưởng niệm các liệt sĩ. Không thể lấy việc cần phải mềm dẻo giữ tình giao hảo giữa hai quốc gia để biện minh cho một thái độ vô cảm bạc bẽo đối với xương máu của chiến sĩ và đồng bào trong quá khứ như thế.Toàn Đảng toàn dân không thể không mở miệng nêu lên câu hỏi hệ trọng bức thiết hàng đầu này với Tổng bí thư - Bí thư quân ủy trung ương: bộ đội ta lấy đâu ra tinh thần để chiến đấu khi họ chứng kiến cái cảnh đảng viên cán bộ trong giới cầm quyền hiện nay sống một đời sống phè phưỡn hoàn toàn cách biệt với dân, trụ sở cấp ủy càng to tát nghênh ngang thì lòng yêu nước và ý thức về chủ quyền quốc gia càng teo tóp, nhạt nhẽo mơ hồ đến mức có Chi ủy viên coi Hoàng Sa là bãi hoang chim ỉa mà cấp trên cũng ngậm miệng lờ tịt, không ai nhắc gì đến bao anh hùng liệt sĩ mà dòng máu vẫn đang nóng bỏng dưới chân mỗi người đang sống hôm nay, đang cuộn chảy phẫn nộ trong những cánh rừng bị bán đi, trên những vùng dự án tại các địa bàn chiến lược hiểm yếu liên tiếp mọc lên các khu cư trú khép kín của lao động phổ thông Trung Quốc? Thiếu gì cách đưa tin bài để vừa thể hiện được tấm lòng của những người đang sống hôm nay đối với các anh hùng liệt sĩ và các gia đình thương binh liệt sĩ mà vẫn giữ được sự mềm dẻo thích đáng trong đối ngoại. Cần nghiêm khắc để thấy rõ, chính thái độ thờ ơ bạc bẽo của người cầm quyền đối với sự hy sinh của bao anh hùng liệt sĩ trên mặt trận chống bành trướng đã làm suy yếu nghiêm trọng nội lực dân tộc và chỉ càng kích thích thế lực bành trướng Bắc Kinh hung hăng lấn tới. Quyền chủ động của các Tổng biên tập hầu như bị bóp siết dúm dó đến thảm hại, 700 tờ báo nhưng coi như chỉ có một Tổng biên tập là Trưởng Ban tuyên giáo trung ương, xu hướng lá cải, sexy hóa, playboy hóa báo chí đang có chiều lấn át. Nhà văn (Hội viên Hội Nhà văn VN) Thùy Linh kêu lên: (báo chí) sexy tất cả trừ lòng yêu nước! Nhà thơ (Hội viên Hội Nhà văn VN) Trần Mạnh Hảo kêu lên: “Tôi yêu nước mà tôi bị bắt !”. Từ Hội nghị nhà văn đảng viên (tháng 6.1979) với“Đề dẫn” của Bí thư đảng đoàn Nguyên Ngọc đến Đại hội lần thứ 8 Hội nhà văn Việt Nam (tháng 8.2010) với báo cáo chính trị của bí thư đảng đoàn chủ tịch Hội Hữu Thỉnh là một tình trạng tuột dốc thê thảm về tư cách kẻ sĩ – trí thức tư duy độc lập, về tư cách yêu nước của Hội đến nỗi đại hội không thể ra được một bản tuyên bố về trách nhiệm của nhà văn trước tình hình đất nước bị giặc bành trướng ngang ngược xâm hại và giặc nội xâm ngang nhiên cướp lột, hệt như hình ảnh trong câu thơ của chiến sĩ – thi sĩ Thanh Thảo tiên tri từ 2008: “Cứ tự mình dán băng keo vào miệng/ Yêu tổ Quốc chỉ còn nghe ú ớ”. Trong lịch sử dân tộc, có bao giờ trí thức văn nghệ sĩ tự bộc lộ trước nhân dân cả nước và thế giới một tư thế đáng xấu hổ như thế chưa? (Nhà báo Sáu Nghệ bình phẩm: “nói đáng xấu hổ vẫn còn là lịch sự!”). Chỉ thị của Ban Bí thư ghi rõ “Đại hội là một sinh hoạt chính trị quan trọng…”, như vậy cái tư cách chính trị của Hội Nhà văn thể hiện ở Đại hội 8 là chính trị gì? Nó tuyệt nhiên không phải là cái chính trị kế tục truyền thống yêu nước vì dân của Văn hóa Cứu Quốc, khiến toàn thể đảng viên và nhân dân chỉ có thể hiểu rằng Bí thư đảng đoàn Hữu Thỉnh đã tiến hành đại hội theo một sự chỉ đạo ngầm kiểu Z30 chứ không phải theo chỉ thị của Ban bí thư? Hay chính Ban bí thư, Bộ Chính trị cũng chưa thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của thế lực thẻ - đỏ - tim - đen Z30? Hay cái tố chất Z30 tồn tại ngay trong con người mỗi ủy viên Bộ chính trị, mà chất Z30 với chất Lê Chiêu Thống thì vốn tuy hai mà một? Tôi vẫn cố để không nghĩ rằng các Ủy viên Bộ chính trị không còn là người yêu nước nữa nhưng những sự thật sờ sờ đó buộc tôi phải nghĩ rằng ở cái trung tâm thâu tóm mọi quyền lực của đất nước này, cái vị trí “vua tập thể” này – như cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã gọi tên một cách xác đáng – lẽ sống không có gì quý hơn Độc lập Tự do đang lùi dần nhường chỗ cho lẽ sống không có gì quý hơn chiếc ghế quan to, dòng máu thắm yêu nước vì dân đang từng ngày từng giờ bị tiêu biến trước sức lấn lướt hung hãn của dòng máu đen yêu ghế đè dân. Mà không chỉ đè dân. Đè nén ngay cả các lão đồng chí tiền bối. Vụ bịt miệng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhằm cố dập tắt tiếng nói phản đối phá hội trường Ba Đình là sự kiện điển hình. Bức thư của Đại tướng gửi Bộ Chính trị không những không được trả lời, mà khi Tổng biên tập báo Đại đoàn kết đăng lên thì bị cách chức. Đây quả là một cử chỉ thách thức quyền mở miệng của Đại tướng, của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Tôi cho rằng đây là hành vi của thế lực Z30 chứ không thể nào là của Bộ Chính trị một Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, dân biết dân bàn, tăng cường thông tin nhiều chiều, đối thoại, lắng nghe, tôn trọng các ý kiến khác biệt. Tôi tin rằng không thể nào 100% Ủy viên Bộ Chính trị (khóa 10) đều nhất trí với chủ trương quá đỗi thất nhân tâm (và cũng là sự dại dột tự hủy hoại uy tín chính trị) này. Tôi rất muốn biết, trong Bộ Chính trị khóa 10, những ai đã bỏ phiếu thuận, những ai bỏ phiếu chống, những ai bỏ phiếu trắng khi biểu quyết chủ trương phá bỏ một di tích gắn với bao sự kiện lịch sử quan trọng trong hoạt động của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh như vậy? Ai đã chủ xướng, và những ai đã bỏ phiếu thuận? Tôi rất muốn biết. Và tôi chắc rằng tất cả những ai đã dâng hiến đời minh cho lẽ sống KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO và tất cả lớp con em đang tiếp bước họ cũng đều rất muốn biết. Đổ bao nhiêu xương máu vì Độc lập Tự do để rồi phải chịu thảm cảnh đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị mất quyền mở miệng nói sự thật thì không thể nào chấp nhận được. Cũng như mọi người đều thấy không hề có một chủ trương nào cho phép cấm đoán, cản trở các cuộc biểu tình của nhân dân lên tiếng bày tỏ lòng yêu nước, phản đối hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Bắc kinh đối với chủ quyền biển đảo nước ta, việc làm ăn sinh sống của ngư dân ta, vậy mọi người phải được biết ai đã ra lệnh cho lực lượng công an bắt giữ, “mời làm việc” những người yêu nước tham gia biểu tình tại Hà Nội, TP HCM những ngày vừa qua? Tôi rất hoan nghênh ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị (khóa 10, 11) Phạm Quang Nghị phát biểu cách đây chưa lâu về việc phải đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ, toàn diện những gì đã xảy ra. Vậy các bức thư, kiến nghị, tuyên cáo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các lão thành cách mạng, các tướng lĩnh cùng hàng trăm nhân sĩ trí thức và hàng ngàn công dân lên tiếng về quốc sự phải được thông tin rộng rãi trên báo đài, đưa về tận thôn cùng xóm vắng, đưa vào nội dung sinh họat của từng chi bộ, từng tổ nông hội, từng tổ công đoàn, từng chi đoàn TNCS HCM, chi hội học sinh, sinh viên thảo luận thật kỹ xem bao nhiêu người tán thành, bao nhiêu người chưa tán thành, bao nhiêu người còn phân vân, bao nhiêu người phản đối. Như thế mới là thực hiện chủ trương của Đảng tăng cường thông tin nhiều chiều, đối thoại, lắng nghe. Cần mau chóng biến chủ trương này thành nếp bình thường, thường xuyên của tổ chức đảng và các hội đoàn, đưa tổ chức đảng và các hội đoàn thoát khỏi tình trạng sinh hoạt hời hợt, hình thức, vô hồn mà cuộc Đại hội lần thứ 8 của Hội nhà văn VN với chi phí rất tốn kém tôi vừa kể trên là một bài học phản diện điển hình. Phải luôn nhớ rằng tổ chức đảng và các hội đoàn được gây dựng bồi đắp bằng xương máu mồ hôi và tài sản của bao thế hệ đảng viên và quần chúng trong quá khứ, nay ta cam chịu ngồi nhìn sự thao túng của chủ nghĩa Z30 (= ăn cướp) kết hợp với chủ nghĩa mackeno khiến các tổ chức này thoái hóa thành một thứ bình phong bệ đỡ cho ngai ghế của một thiểu số chức sắc nhân danh cách mạng để làm vua quan cách mạng, là một tội lớn đối với Đảng, với dân và với chính bản thân mình.Thông tin nhiều chiều, đối thoại, lắng nghe lẫn nhau, bình đẳng trao đổi thảo luận một cách ôn hòa trầm tĩnh, tiếp nhận nhau và làm phong phú lẫn nhau giữa người lãnh đạo với nhân dân, đấy là một trong những việc bắt buộc phải gấp rút làm để khôi phục quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã bị hủy hoại gần như sạch trơn. Tôi hoan nghênh Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị gần đây đã bước đầu thực hiện được phần nào công việc ấy tại Đại hội Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Hà Nội (LHHVHNTHN). Dù đang bận họp Hội nghị Trung ương 2, “Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị đã dành hẳn cả một buổi sáng để lắng nghe ý kiến tham luận của các văn nghệ sĩ Thủ đô và ông có cuộc trao đổi khá cởi mở với các đại biểu về đề tài bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc” (trích tường thuật của nhà báo nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, Ủy viên BCH Hội nhà văn Hà Nội). Trong các ý kiến của văn nghệ sĩ, đặc biệt đáng chú ý là bài tham luận “Văn học nghệ thuật của lòng yêu nước” của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, Phó chủ tịch LHHVHNTHN (trích): “… những ngày này Biển Đông đang làm nổi sóng yêu nước của những người dân Việt Nam, yêu sách phi lý về đường lưỡi bò chín đoạn trên biển và những hành động trắng trợn, ngang ngược phía Trung Quốc đối với các tàu bè và ngư dân Việt Nam đang hoạt động, làm ăn trong vùng biển thuộc chủ quyền của mình đã khiến toàn thể dân ta bất bình, phẫn nộ và kiên quyết đấu tranh, phản đối. Và chúng ta đang đấu tranh bằng con đường hòa bình, bằng ngoại giao nhân dân và nhà nước. Trong cuộc đấu tranh này, cần đến sức mạnh của văn học nghệ thuật và quả thực vũ khí văn nghệ đã và đang tác dụng mạnh mẽ. Có đi tuần hành cùng nhân dân, mới thấy lời thơ, tiếng hát có tác dụng đến thế nào trong sự biểu lộ tình cảm yêu nước cùng nhau đoàn kết quyết tâm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của non sông tổ quốc”.(…)“Mỗi chúng ta, là công dân, là người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn, đừng để cuộc sống thanh bình đầy đủ tiện nghi vật chất trên đất liền, ở các thành phố, ở giữa thủ đô, che khuất tầm nhìn về hướng biển, về những người lính, người dân đang ngày đêm vật lộn với sóng nước, chống đỡ với những mưu toan thâm độc của kẻ láng giềng nước lớn hung hãn, đang lấy thân mình che cho tổ quốc khỏi cơn cuồng phong xâm lược có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Chúng ta, các văn nghệ sĩ thủ đô, hãy có thêm những sáng tác mới cho/vì người dân người lính nơi hải đảo, giữa trùng khơi. Đó là cách chúng ta biểu lộ lòng yêu nước của mình. Đó là cách chúng ta thể hiện sự phản đối âm mưu của kẻ xấu. Đó là cách chúng ta xứng đáng với danh hiệu “Hà Nội – thành phố vì hòa bình”.

Tôi đề nghị đại hội chúng ta ngay bây giờ hãy có một hình thức cụ thể bày tỏ tấm lòng của các văn nghệ sĩ thủ đô Hà Nội đối với đồng bào và chiến sĩ ở Hoàng Sa - Trường Sa, hai quần đảo thiêng liêng thuộc chủ quyền Việt Nam”.

Chủ tịch Phạm Xuân Nguyên đã nói tiếng nói của lòng mình, lòng dân, cái tiếng nói mà nhân dân đã hết sức thất vọng, sau bao trông đợi lại không được nghe cất lên từ Chủ tịch Hữu Thỉnh tại diễn đàn Đại hội 8 của Hội Nhà văn Việt Nam. Cám ơn Chủ tịch Phạm Xuân Nguyên, anh đã nhen lại cho tôi chút niềm tin và hy vọng vào phẩm chất người đảng viên tiền phong gương mẫu, vào bản lĩnh kẻ sĩ – trí thức tư duy độc lập, vào khí phách người chiến sĩ cách mạng chiến đấu cho Tự do. Phẩm chất ấy, bản lĩnh ấy, khí phách ấy, sau bao năm bị xúc phạm, bị vùi dập, bị hình sự hóa, đã lại bật dậy, trên đường phố Sài Gòn, trước mặt Đại sứ quán Trung Quốc, trên quảng trường Nhà hát Lớn, trên diễn đàn Đại hội Văn nghệ Thủ đô. Phạm Xuân Nguyên không phải Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, một danh xưng mà khá nhiều người cầm bút còn đang ham muốn, thậm chí nghe đâu có người phải cố tìm cách “chạy” để kiếm một tấm thẻ. Ấy vậy mà anh lại được đồng nghiệp tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, một hội có khá đông Hội viên Hội nhà văn VN. Ngày nay, hiếm có một cán bộ đương chức nào dám xông xáo trên mặt trận mở miệng nói sự thật về nguy cơ mất nước như thế, một hành động tự đặt mình vào nguy cơ mất chức trong khi tình trạng phổ biến là người ta lo mất ghế hơn lo mất nước. Phải chăng, giữa thời buổi nhiễu loạn rối bời mọi giá trị, đã bắt đầu một quá trình các giá trị đích thực cứ tự thân trở về đúng chỗ, bất chấp mọi ác ý, mọi mưu toan đen tối? Phải chăng đang hiện rõ dần cái mà Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gọi là “thực tiễn tự tìm đường”, nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “cuộc sống vẫn lừng lững đi tới”? Tôi thì nghĩ, cái “thực tiễn tự tìm đường” ấy, cái “cuộc sống vẫn lừng lững đi tới” ấy, luôn hoài thai và lớn dậy từ những cái tự xác quyết, tự lựa chọn ở từng con người. Và từng con người, với nhu cầu bức thiết bên trong, tự mở miệng nói sự thật. Kim Ngọc: “Nếu tôi sợ, các đồng chí sợ, tất cả chúng ta đều sợ, thì để dân chết đói à?”. Nguyên Ngọc: “Hội nghị chúng ta đã cơ bản nhất trí với “Đề dẫn”!”. Đoàn Duy Thành: “Chúng ta làm cách mạng để đem lại hạnh phúc cho dân, tại sao lại vô cớ tịch thu nhà của dân?”. Phạm Xuân Nguyên: “Tôi nguyện làm cái tai của chính quyền để nghe tiếng nói của dân, làm cái miệng của dân để nói tiếng nói của dân với chính quyền”. Từ diễn đàn Đại hội, qua giọng đọc đầy xúc cảm của Phạm Xuân Nguyên, vang lên tiếng thơ của Tô Thùy Yên thi sĩ - sĩ quan VNCH (viết hai tháng sau sự kiện Hoàng Sa 1974) về những người lính Việt Nam đồn trú ở Trường Sa khẳng định sự có mặt của Việt Nam tại đảo này: “Trường Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng! / Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề / Lính thú mươi người lạ sóng nước / Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi”, và tiếng thơ của thi sĩ - chiến sĩ VNDCCH Trần Mạnh Hảo ca ngợi “Người anh hùng họ Ngụy” hy sinh ở Hoàng Sa năm ấy: “Người yêu nước không thể nào là ngụy / Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy / Nhưng anh: là Ngụy Văn Thà / Anh - hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo / Lao thẳng vào tàu giặc cướp / Tên anh còn mãi với Hoàng Sa / Biển vật mình thét đại bác / Giặc bủa vây chiến dịch biển người / Lửa dựng trời dìm tàu giặc / Máu anh cùng đồng đội ngời ngời / Ôm chặt tàu / Ôm chặt đảo / Anh hóa thành Tổ Quốc giữa trùng khơi”.

Và điều đặc biệt đáng ghi nhận: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị đã trân trọng lắng nghe. Anh có xúc động? Tôi tin rằng, một cách tự nhiên, người đã từng lăn lộn ở chiến trường giữa lòng dân như anh thì không thể không xúc động. Có người Việt Nam nào lại không xúc động trước tấm gương hy sinh lẫm liệt của người anh hùng Ngụy Văn Thà cùng đồng đội trong trận chiến chống giặc bành trướng Trung Quốc, bảo vệ Hoàng Sa thiêng liêng! Tôi tin rằng, giờ phút ấy tại đại hội, dòng máu thắm yêu nước vì dân không thể không dậy lên thôi thúc Phạm Quang Nghị tự bứt phá nốt trong anh những rào cản hoen rỉ của một thứ thiên kiến chính trị ý thức hệ giai cấp hẹp hòi, giục anh bước hẳn ra đứng giữa nhân dân trên một nền chính trị quảng đại vững bền: chính trị Tổ Quốc trên hết, quyền dân trên hết. Nhưng khi trở về ngồi họp Thành ủy, họp Bộ Chính trị, liệu anh có nhắc gì đến các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh trên biển đảo Hoàng Sa? Anh sẽ nói gì khi nhân dân nêu lên đề nghị này: Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội hãy sớm xúc tiến một cuộc gặp gỡ thơ nhạc Việt gồm các tác giả trong nước và hải ngoại về chủ đề biên cương, biển đảo, tổ chức theo phương thức tự cân bằng thu chi, không cần xin một đồng của nhà nước; những người tham dự tự túc ăn ở đi lại, người dư dả sẽ giúp người thiếu thốn (tôi chắc các ca sĩ có thu nhập cao sẽ sẵn sàng trợ giúp các nhạc sĩ thi sĩ nghèo), sẽ bán những tấm vé đặc biệt cho các nhà hằng tâm hằng sản nhiệt thành hưởng ứng cuộc ĐẠI ĐOÀN VIÊN THƠ NHẠC VIỆT BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG BIỂN ĐẢO.

Bài tường thuật Đại hội Văn nghệ Thủ đô của nhà báo Nguyễn Việt Chiến lập tức loan nhanh trên internet lại không được đăng trên các báo chính thức kể cả các báo của Thủ đô, mặc dù Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị có quan điểm về thông tin đúng đắn, thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền mở miệng/ thông tin, như Hiến pháp đã qui định. Đây có thể là trường hợp lực bất tòng tâm, chắc rằng Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị và anh chị em Tổng biên tập yêu nước ở nhiều đài báo cũng rất muốn loan tải nhưng sự thao túng có hệ thống của thế lực Z30 sợ sự thật trên lãnh vực cực kỳ sinh tử này còn rất ngoan cố.

Xin cùng nhau đọc lại những dòng sau đây của nhà thơ cộng sản Louis Aragon viết về khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 – năm ra đời của Đảng CSVN:

Không thể bịt miệng một dân tộc

Không thể khuất phục một dân tộc

Bằng lưỡi kiếm đao phủ

Sau 81 năm, lại vẫn một sự ngoan cố mù quáng, mê muội của bạo quyền. Giữa thời đại internet mà lại duy trì quyền lực phi nghĩa bằng bưng bít và ngăn chặn thông tin thì khác gì lấy rổ múc nước.

Hãy cùng toàn thế giới nhìn gương mặt ngẩng cao hiên ngang của Cù Huy Hà Vũ, con trai của nhà thơ cách mạng Huy Cận – Bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh, và nghe vang lên lời tuyên bố dõng dạc của anh giữa phiên tòa phát-xít đỏ: “Lịch sử sẽ phá án cho tôi !”.

Hãy cùng toàn thế giới nhìn giọt nước mắt của người sĩ quan an ninh Việt Nam yêu nước bất đắc dĩ phải cầm dùi cui đứng đối diện với những người Việt Nam yêu nước đang hô to: “Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam!”.

Đừng ngoan cố lao theo ảo vọng đem tiền thuế mồ hôi xương máu của dân mua chuộc một thiểu số sĩ quan an ninh là có thể sai khiến họ sử dụng nổi một lực lượng con em nhân dân lấy dùi cui còng sắt bịt miệng nhân dân.

Dù còn ngoan cố đến đâu, tự bưng tai bịt mắt đến đâu cũng không thể không thấy một trào lưu mở miệng ngày càng mạnh, ngày càng lớn, ngày càng rộng, với tinh thần tích cực chủ động ngày càng cao, với những phương thức ngày càng phong phú linh hoạt sáng tạo, trong xu thế tiến tới, tiến bước nào chắc bước nấy, ngay từ trong lòng tổ chức Đảng (kể cả cấp ủy) và các hội đoàn quần chúng hòa quyện mật thiết với sinh hoạt xã hội dân sự mà nhân dân đang tự hình thành và tự phát triển.

Đà Lạt 15.07.2011

B.M.Q.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Lo ngại công an lạm quyền đánh chết người

Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch (HRW) nói họ vẫn tiếp tục lo ngại về việc công an Việt Nam dùng bạo lực với người dân, nhiều trường hợp dẫn đến chết người.

Một báo cáo của tổ chức đặt trụ sở ở New York, tháng Chín năm ngoái, trích dẫn có 19 trường hợp cảnh sát thô bạo, trong đó có 15 vụ gây tử vong, dựa trên tin báo giới chính thống.

Gần một năm đã trôi qua, và HRW cáo buộc rằng hầu như vẫn không có thay đổi nào tại Việt Nam.

Nói với hãng tin AFP, phó giám đốc khu vực châu Á của HRW, ông Phil Robertson, nhận xét: “Cơ bản mà nói, cảnh sát tự tiện lạm dụng quyền hành ngược đãi người bị bắt giữ. Chuyện này vượt quá tầm kiểm soát rồi.”

Vụ gần đây gây bức bối cho dư luận trong nước là vụ ông Trịnh Xuân Tùng, phường Thịnh Liệt, Hà Nội, bị công an đánh gãy xương cổ rồi chết ít ngày sau đó.

Thuật lại những gì bố của mình kể lại trước khi chết, cô con gái 21 tuổi của ông Tùng, Trịnh Kim Tiến, nói bố mình bắt xe ôm đi ra một bến xe buýt ở Hà Nội vào một buổi chiều hồi đầu năm. Ông cởi mũ bảo hiếm sang một bên để gọi điện thoại trên đường đi.

Việc không mang mũ khi đi xe máy là phạm luật, vì thế một cảnh sát đã tạm giữ/tịch thu phương tiện và phạt người lái xe 150,000 đồng, trị giá khoảng ba ngày lương.

AFP trích lời con gái ông Tùng nói, lái xe đã không chịu trả tiền phạt dẫn đến việc tranh cãi và xô xát khiến ông Tùng cố gắng can ngăn.

Cô Trịnh Kim Tiến nói: “Sau đó cảnh sát tấn công bố tôi.”

Ông Tùng kiếm sống bằng nghề bán chim và “chưa bao giờ có vấn đề với bất kỳ ai”, bị đánh vào cổ và lưng trước khi bị đưa tới đồn công an.

Tại đây, con gái ông tìm thấy ông trong tình trạng bị còng cả chân và tay, kêu rằng không thể cử động được.

“Họ nói bố tôi đang cố giả vờ và không ai làm gì ông ấy cả. Sau đó, ông đã chết trong bệnh viện.”

"Có vẻ Bộ Công an quan tâm việc bảo vệ chính mình hơn là bảo vệ người dân Việt Nam"

Phil Robertson, HRW

HRW nói trường hợp này làm nổi bật sự báo động về việc lạm quyền trong lực lượng công an Việt Nam, nơi mà chỉ những vi phạm nhỏ có thể gây ra những kết cục bi thảm.

Tổ chức này kêu gọi chính quyền Việt Nam nhanh chóng mở các cuộc điều tra kỹ lưỡng và minh bạch về hàng loạt ca tử vong do công an sử dụng vũ lực chết người gây nên, và xử lý những cán bộ có trách nhiệm trong việc này.

Bảo vệ ai?

Bản báo cáo hàng năm của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam dẫn ra 9 vụ tử vong trong năm 2010, tăng so với năm 2009 là không có trường hợp nào và năm 2008 là 1 vụ.

Báo cáo hồi tháng Tư nói: “Trong gần như tất cả các vụ, công an cáo buộc rằng nạn nhân đã tự sát.”

Trong một trong các vụ lạm quyền đáng chú ý nhất, ông Nguyễn Văn Khương chết trong lúc bị bắt giam sau khi ông này bị công an chặn lại vì vi phạm luật lệ giao thông ở tỉnh Bắc Giang vào năm ngoái.

Một nhà ngoại giao nước ngoài không cho biết tên nói với AFP rằng cả ngàn người đã biểu tình trước cái chết của người thanh niên trẻ và một nhân viên cảnh sát đã bị mức án 7 năm tù, một hình phạt chưa từng có cho việc công an lạm dụng quyền lực kiểu này.

Ông nói, mỗi một quốc gia, ở mức độ nhất định, đều phải đối mặt với các vấn đề trong ngành cảnh sát nhưng “cách giải quyết vấn đề đó như thế nào cũng định hình việc giải quyết các vấn đề nhân quyền nói chung. ”

Bộ Công an đã không trả lời đề nghị phỏng vấn của AFP. Tuy nhiên, chính quyền nói rằng luật pháp “nghiêm cấm việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp khi thi hành công vụ.”

Ông Phil Robertson chỉ trích: “Có vẻ Bộ Công an quan tâm việc bảo vệ chính mình hơn là bảo vệ người dân Việt Nam.”